Tiềm năng và vai trò của y dược cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe người dân

Với chủ đề “Y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng”, Hội nghị y học cổ truyền, y học dân gian các nước tiểu vùng sông Mekong lần thứ 9 năm 2019 do Bộ Y tế Việt Nam đăng cai sẽ diễn ra tại Hà Nội trong 2 ngày 5 và 6-9-2019.

Chủ trì tổ chức Hội nghị lần này, Việt Nam mong muốn khẳng định vai trò của y dược cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe người dân. Việc củng cố, phát triển hệ thống y học cổ truyền là một trong mục tiêu cơ bản mà thời gian qua Bộ Y tế Việt Nam rất quan tâm.

Góp phần chăm sóc và nâng cao sức khỏe cộng đồng

Theo Bộ Y tế, Việt Nam và các nước trong tiểu vùng sông Mekong đều có nền y dược cổ truyền lâu đời. Nền y dược cổ truyền đó đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Các nước trong tiểu vùng sông Mekong cần tiếp tục tích cực đầu tư và chỉ đạo các cơ quan chức năng tổ chức thực hiện việc kế thừa, bảo tồn và nghiên cứu phát triển nền y dược cổ truyền, kết hợp các thành tựu của y dược cổ truyền với các thành tựu, những kiến thức của khoa học hiện đại để phát triển một nền y học hiệu quả, an toàn và bền vững.

Việc củng cố, phát triển hệ thống y dược cổ truyền là một trong các mục tiêu cơ bản mà thời gian qua Bộ Y tế Việt Nam rất quan tâm. Do đó, chủ trì tổ chức hội nghị lần này, Việt Nam mong muốn khẳng định vai trò của y dược cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe người dân. Tại hội nghị, Việt Nam cũng sẽ giới thiệu với các nước thuộc lưu vực sông Mekong về y dược cổ truyền Việt Nam nói chung và hoạt động ứng dụng y dược cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng nói riêng.

Việt Nam có nền y dược cổ truyền lâu đời, phong phú. Y dược cổ truyền Việt Nam bao gồm y học dân gian của các dân tộc Việt Nam và y học cổ truyền trong hệ hàn lâm. Y dược cổ truyền Việt Nam có nhiều đóng góp to lớn trong bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân cũng như phòng và chữa bệnh. Nhiều danh y đã để lại những tác phẩm Đông y nổi tiếng không chỉ về y học mà còn tổng hợp nhiều vị thuốc, cây thuốc và bài thuốc độc đáo. Đặc biệt, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ tiên tiến, y dược cổ truyền Việt Nam đã luôn luôn chú trọng đến công tác kế thừa, chọn lọc ứng dụng, bảo tồn nhằm phát huy giá trị của y dược cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn quan tâm đến sự phát triển của nền y học cổ truyền nước nhà, đã ban hành nhiều chủ trương chính sách để củng cố và phát triển hệ thống y dược cổ truyền. Đặc biệt, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TW (ngày 4-7-2008) của Ban Bí thư về phát triển nền đông y Việt Nam và Hội đông y Việt Nam trong tình hình mới, đến nay nhận thức về vai trò, vị trí của y dược cổ truyền Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân đã được nâng lên. Hệ thống quản lý và khám, chữa bệnh y dược cổ truyền được xây dựng, củng cố, kiện toàn theo từng cấp; mạng lưới khám chữa bệnh y dược cổ truyền bao phủ rộng từ trung ương đến địa phương; nguồn nhân lực cán bộ, y bác sĩ, lương y được tăng cường về số lượng và chất lượng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho đội ngũ thầy thuốc y học cổ truyền được đẩy mạnh. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y học cổ truyền tại các cơ sở khám chữa bệnh được đầu tư, nâng cấp và xây dựng mới, bước đầu đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân. Công tác quản lý hành nghề đông y được quan tâm ở các cấp. Hoạt động của các cấp hội đông y đã có những đóng góp quan trọng và hiệu quả. Hội đông y các cấp có nhiều hoạt động tích cực trong vận động, tập hợp, động viên những người làm nghề y dược cổ truyền dân tộc cống hiến tài năng, kinh nghiệm vào công tác phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân dân; nghiên cứu khoa học, khôi phục và phát triển nguồn dược liệu.

Hiện Việt Nam có hệ thống bệnh viện y dược cổ truyền công lập tuyến Trung ương và tuyến tỉnh là 65 bệnh viện. Tỷ lệ bệnh viện đa khoa tuyến huyện có khoa, tổ y dược cổ truyền đạt 92,7%; Trạm y tế xã có hoạt động khám chữa bệnh bằng y dược cổ truyền đạt 84,8%; 89% trạm y tế xã có vườn thuốc nam. Mỗi năm có khoảng 30% số người bệnh được khám và điều trị bằng y học cổ truyền hoặc kết hợp y dược cổ truyền với y dược hiện đại. Việc kết hợp khám chữa bệnh giữa y học cổ truyền với y học hiện đại ở các tuyến luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe người dân, do đó, ngày càng được mở rộng và phát huy hiệu quả.

Bên cạnh đó, việc nuôi trồng, chế biến, sử dụng dược liệu, nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực y dược cổ truyền bước đầu đã được quan tâm và đầu tư; coi trọng hoạt động kế thừa, bảo tồn các bài thuốc quý, hợp tác quốc tế về y, dược cổ truyền được mở rộng…

Tiềm năng lớn về nuôi dưỡng và phát triển các cây thuốc quý

Việt Nam là quốc gia có nhiều loại dược liệu quý, hiếm và vốn tri thức y học truyền thống dân tộc với nhiều bài thuốc có giá trị, thực sự là một kho tàng vô giá để tạo ra các sản phẩm thuốc, dược liệu để phát triển nền y dược cổ truyền.

Với hệ sinh thái phong phú, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn về việc nuôi dưỡng và phát triển các cây thuốc quý. Tại Việt Nam, việc nghiên cứu về cây thuốc đã được tiến hành từ rất sớm, gắn liền với tên tuổi của nhiều danh y nổi tiếng như: Thiền sư Tuệ Tĩnh với bộ “Nam Dược Thần Hiệu” viết về 499 vị thuốc Nam, trong đó có 241 vị thuốc có nguồn gốc từ thực vật; Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với bộ “Lĩnh Nam Bản Thảo” gồm 2 quyển: quyển thượng chép 496 kế thừa của Tuệ Tĩnh, quyển hạ ghi 305 vị bổ sung về công dụng hoặc mới phát hiện thêm.

Theo thống kê của Viện Dược liệu, Việt Nam đã ghi nhận trên 5.000 loài thực vật và nấm, 408 loài động vật và 75 loại khoáng vật có công dụng làm thuốc. Trong số những loài đã công bố, có nhiều loài được xếp vào loại quý hiếm trên thế giới như: sâm Ngọc Linh, Tam thất hoang, Bách hợp, Thông đỏ… trong đó, sâm Ngọc Linh (hay sâm Việt Nam) là một trong những loại sâm có hàm lượng saponin nhiều nhất, cao hơn cả những loại sâm quý được nghiên cứu sử dụng lâu đời trên thế giới như sâm Triều Tiên, sâm Trung Quốc.

Bên cạnh đó, với thế mạnh về nguồn tài nguyên dược liệu, cộng đồng dân tộc Việt Nam đã tích lũy được những kinh nghiệm và truyền thống lâu đời trong sử dụng các loại cây, con làm thuốc góp phần hình thành nên một kho tàng tri thức khổng lồ mang bản sắc riêng theo từng dân tộc, từng vùng miền. Y dược cổ truyền Việt Nam đã tổng hợp được danh mục các loài cây thuốc từ cộng đồng các dân tộc và thu thập, sưu tầm được gần 1.300 bài thuốc dân gian trên cả nước. Những tri thức bản địa này là cơ sở quan trọng nhằm hỗ trợ cho việc sàng lọc, nghiên cứu phát triển sản phẩm phục vụ công tác phòng và chữa bệnh của nhân dân.

Đặc biệt, sau gần 30 năm thực hiện, công tác bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn cây thuốc đã đạt những kết quả nhất định. Đến nay, ngành y tế Việt Nam đã duy trì mạng lưới bảo tồn nguồn gen tại 7 vùng sinh thái gồm: vùng Đồng bằng Sông Hồng (Hà Nội), vùng trung du phía Bắc (Tam Đảo), vùng núi cao phía Bắc (Lào Cai), vùng Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa), vùng Tây Nguyên (Đà Lạt), vùng Duyên hải Nam Trung Bộ (Phú Yên) và vùng Đông Nam bộ (TP Hồ Chí Minh). Đồng thời, ngành đã lưu giữ và bảo tồn 1.531 nguồn gen thuộc 884 loài cây thuốc tại 7 vườn cây thuốc thuộc các đơn vị; 100% các nguồn gen bảo tồn được đánh giá ban đầu; 30% nguồn gen được đánh giá chi tiết về các chỉ tiêu sinh trưởng và phát triển… Đáng chú ý, hiện đã có 11 cây dược liệu được trồng theo nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc” (GACP-WHO), bao gồm: Trinh nữ hoàng cung, Actiso, Bìm bìm biếc, Rau đắng đất, Đinh lăng, Diệp hạ châu đắng, cỏ Nhọ nồi, Tần dày lá, Dây thìa canh, chè dây và Kim tiền thảo. Mỗi năm nước ta tiêu thụ khoảng 50-60.000 tấn các loại dược liệu khác nhau, sử dụng vào việc chế biến vị thuốc y học cổ truyền, nguyên liệu ngành công nghiệp dược hoặc xuất khẩu. Đó chính là những điều kiện quan trọng để Việt Nam phát triển ngành công nghiệp dược liệu và nền y học cổ truyền, phục vụ công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.

Theo TTXVN