Quỳ bên mộ chồng chị cắm nén nhang
Như dấu chấm than ngược trời chấm đỏ
Giọt nước mắt rơi mềm mầm cỏ
Hơi thở sâu xao động đất anh nằm
Cuộc chiến tranh dài ba mươi năm
Sự chờ đợi bằng ba mươi thế kỉ
Chị thành kính quỳ bên mộ chí
Nỗi chờ mong rỗ mặt đá bia mòn
Chị đã lên bà nhưng không có con
Ba mươi năm đi về úp mặt
Chị nhớ anh quen nhìn xuống đất
Mượn bóng mình ấp bóng người thương
Ba mươi năm trăn trở bốn góc giường
Chiếc gối cưới đêm đêm nhàu nước mắt
Gối bỗng thành đứa con duy nhất
Chị vỗ về không vợi nỗi cô đơn
Hai mươi năm đất nước bình yên
Có cuộc chiến vẫn đốt lòng bao người vợ
Niềm thủy chung thấu lòng người dưới mộ
Thoảng gió chiều đỏ rực những mầm nhang!
Bài thơ sáng tác năm 1995, ra đời sau 20 năm đất nước thống nhất. Hố bom giặc thù đã được san phẳng, đã xanh lúa, xanh khoai và mọc lên nhà máy mới. Nhưng với con người (đặc biệt với người phụ nữ), vết thương lòng những nỗi đau thì vẫn còn đó nhức nhối quặn thắt: “Có cuộc chiến vẫn đốt lòng bao người vợ”.
Nhớ thương quặn thắt, chị đến nghĩa trang cắm những nén nhang thành kính, nhớ thương lên mộ chồng. Chị “quỳ xuống”, không, chị “quỳ bên”, chữ “bên” khác chữ ‘xuống” biết bao là cung bậc tình cảm, bởi tình nghĩa vợ chồng với họ có bao giờ xa cách, họ vẫn bên nhau mãi mãi.
Tình thương, tình chung thủy vợ chồng của những người con dân đất Việt đã được khẳng định, ngợi ca. Thời gian càng dài tình thương, tình chung thủy ấy càng nồng đượm. Ba mươi năm, khoảng thời gian của vũ trụ không dài, nhưng với đời một người phụ nữ thì ba mươi năm đã quá đủ minh chứng cho sự chờ đợi, lòng chung thủy ấy. Ba mươi năm chị mỏi mòn, hi vọng ngóng trông, một sự thật đến se lòng “Sự chờ đợi bằng ba mươi thế kỉ”. Xúc động biết bao khi ta đọc những dòng thơ chất chứa cõi lòng, cõi đời:
Chị nhớ anh quen nhìn xuống đất
Mượn bóng mình ấp bóng người thương
Tác giả đã tạc chị thành tượng đài trong lòng mỗi người đọc, mỗi chúng ta:
Chị thành kính quỳ bên mộ chí
Nỗi chờ mong rỗ mặt đá bia mòn!
Chọn những chi tiết thật đắt, tác giả làm xao động tâm hồn ta từng đợt, từng đợt như sóng biển vỗ bờ mãnh liệt ngày đêm gây nên ám ảnh. Ta nấc lên, òa ra khi hình ảnh chiếc gối cưới được hiện lên thấm “nhàu đẫm nước mắt”. Chiếc gối cưới được hiện hình như một kỉ vật thiêng liêng có sức lay động, lan tỏa trái tim, nước mắt nhiều thế hệ:
Chiếc gối cưới đêm đêm nhàu nước mắt
Gối bỗng thành đứa con duy nhất
Chị vỗ về không vợi nỗi cô đơn.
Đọc những dòng thơ này, lòng ta nấc lên, rung lên uất nghẹn! Đã hơn một lần chúng ta đã từng nén chặt cảm xúc khi đọc ý thơ trong trường ca của Hữu Thỉnh:
Chị thiếu anh nên chị bị thừa ra
Những đêm trở trời trái gió
Tay nọ ấp tay kia
Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch.
Bài thơ viết về hi sinh mất mát, về nỗi đau nhưng kết thúc không bi lụy mà gieo vào lòng người đọc cái mầm của sự sống, mầm của hi vọng:
Niềm thủy chung thấu lòng người dưới mộ
Thoảng gió chiều đỏ rực những mầm nhang.
Cuộc chiến đã đi qua, Tổ quốc hòa bình thống nhất, đất nước bước vào thời kì dựng xây, hàng ngày, hàng giờ đang thay da đổi thịt, song mỗi chúng ta vẫn mãi mãi không bao giờ quên:
Có cuộc chiến vẫn đốt lòng bao người vợ!
Thái Hà