Đi giữa không gian sống huyền thoại miền cao nguyên

(NTO) Tôi mua một ít gạo và rượu trắng mang đến mộ ông đặt xuống hướng chân, vì biết người thiểu số Ê Đê vốn coi gạo với rượu mộc là thứ cao cả và chân là chỗ linh hồn con người bay lên_ cùng với đầu. Người ta chưa làm lễ bỏ mả cho ông. Ông “ra đi” vào đúng đêm Noel năm kia. Chỗ ông nằm là cuối làng, cách căn nhà dài lúc còn sống ông chừng hai mươi ba thước, tính theo kiểu người Kinh ta_từ phố vào. Nhưng tính theo kiểu truyền thống dân tộc Ê Đê ông, thì gọi là đầu buôn, nơi đầu nguồn con suối kia dưới thung sâu kế cận kia. Mộ ông nhìn ngay ra bao quát hết buôn Ako dhông của ông, gọi “Buôn” cũng được mà “Phố” càng chính xác, thậm chí nó “Phố” hơn bất cả con phố nào ở Buôn Ma Thuột nếu nói về tổ chức đô thị. Một không gian Phố đặc quánh “Ê Đê” và sừng sững …

Ai đó mới trồng một cây kơnia trước mộ ông hẳn để tăng chất “Tây Nguyên” cho mộ một già làng. Nhưng ngôi mộ thì vẫn đang được che mát nhờ một cây cổ thụ to còn sót lại mà hẳn ý thức lắm người ta mới giữ được nó đến giờ giữa cơn xô bồ thời địa ốc. Nó nằm giữa thành phố Buôn Ma Thuột, thuộc phường Tân Lợi, quanh khắp nó đã tràn ngập nhà bê tông với kiến trúc Âu Mỹ như Sài Gòn, Hà Nội, Đà Nẵng.

Ngày ông mất tôi không hay biết. Nay bất chợt ghé lại thăm thì ông đã ở dưới kia. Ngồi bên mộ phần bé gọn của ông và nhìn vào căn nhà dài mà mình từng đặt bước lên nhiều lần, một hình ảnh Ama H’rin hiện ra…

 
Từ mộ ông nhìn vào ngôi nhà dài ông từng ở lúc còn sống, và cả buôn Akô Dhông.
 
 
Phần mộ của già làng Ama H’rin, và tượng người ta tạc về ông.

"Kiến trúc sư trưởng" ... Buôn Akô Dhông

Người đã nằm dưới mộ khi còn sống có một phong thái như Tây, mà ai đã gặp có thể so sánh ông với những người làm trong ngành “ngoại giao” chuyên nghiệp. Song cái phong thái Ama H’rin có là nhờ sự chân thành trong cốt cách và sự trải nghiệm từ minh tri núi rừng sâu nặng cùng cuộc đời chìm nổi của chính mình mà ra chứ không phải nhờ trường học dạy hay kỹ thuật điều khiển sự biết, lý trí. Ở ông, bất cứ tình huống nói chuyện với ai cũng ở dạng tâm tình. Sự từ tốn, bặt thiệp và chân thật đó khiến khi tiếp xúc với ông, phút chốc bạn như trở thành người của làng này, mà ông là già làng; bạn bị tan hòa trong sự nồng ấm và năng lượng niềm tin không giới hạn đó.

Ông từng kể tôi ông là đứa trẻ mồ côi. Kể về cái làng Ea Mlai nhỏ ở vùng M’drak bị thiêu rụi vì đạn pháo chiến tranh. Ông đi chăn bò thuê, và làm mọi thứ. Cho đến khi học lỏm được nghề trồng cà phê của “Tây” trong các đồn điền Pháp trên cao nguyên Dak Lak, và dạt đến đầu con suối Ea Nuôl ở Buôn Ma Thuột, rồi lập ra được cái buôn Akô Dhông này cho những người Ê Đê nghèo như ông kể từ giữa thập niên 50 thế kỷ trước. Làng ông cũng là làng người Ê Đê đầu tiên trồng cà phê, và ông là người trước hết của làng ấy. Chuyên nghiệp với thứ cây công nghiệp người Pháp xa lạ đưa vào này, Ama H’rin chìa tay ra ngay không chút dùng dằng, để cũng từ đó lơi dần, lơi dần với cây lúa cạn, hoa màu truyền thống vốn mất công sức nhiều mà lợi lạc ít. Ra đời gần 60 năm qua, buôn Akô Dhông vẫn nguyên si nếp nhà dài Ê Đê truyền thống. Nói tiếng Pháp và tiếng Việt lưu loát như Ama H’rin mà đến khi chết vẫn chết trên căn nhà dài kìa. Mỗi gia đình một căn nhà sàn dài ngút, đẹp thuần khiết, chắc chắn, sườn là gỗ căm xe và cà chít. Bên trong căn nhà dài nào cũng có bếp lửa, có cái Kpan, có cồng, chiêng, ché rượu, cây nêu, vỏ bầu, trái bí, và tất cả những vật kia vẫn đang “sống”, được gióng lên, thở ra, bốc khói, chứ không phải hiện vật triển lãm. Bên ngoài, để lên bất cứ căn nhà sàn nào, khách vẫn bước lên cặp đôi cầu thang “đàn ông” và “đàn bà”, mà chiếc cầu thang Nữ thì vẫn tạc đôi ngực phồn sinh của người phụ nữ để biểu thị cho tinh thần Mẫu hệ. Không còn những rẫy lúa nữa, chỉ là rẫy cà phê, thế mà những gì liên quan đến “không gian văn hóa cồng chiêng” và nền “Văn minh thảo mộc” ấy vẫn còn nguyên si. Bây giờ đời sống khá giả, nhiều nhà xây thêm nhà mới, thì căn biệt thự lại đặt lút cuối căn nhà dài, để nó nép mình bên căn nhà sàn, chứ không cho chồm ra. Biệt thự bê tông hiện đại với vật dụng bên trong xa xỉ nhưng mà là “nhà phụ”, một bộ phận cơi nới thôi, nhìn kỹ mới thấy nó. Cây phía sau trùm cái biệt thự lại, trong khi căn nhà sàn như mũi tàu hướng ra mặt đường phố chính_ con đường nhựa mang tên Trần Nhật Duật xuyên qua làng. “Dân trí” ở cái làng này không những không thua kém mà nhiều làng Việt hay khu phố người Kinh hình thành trên đất Tây Nguyên, chạy theo ứ hơi không nổi. Người Akô Dhông tham dự vào mọi nghề nghiệp trong xã hội, thành đạt, và được nể trọng rộng khắp. Bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, công chức, doanh nhân… ê hề ở làng này_bình thường quá. Nhiều chục năm trước Ama H’rin đã coi giáo dục là lối ra cho dân tộc, và nài nỉ các gia đình bền bỉ thực hiện. Con trẻ, ra đường nói tiếng phổ thông cho “tiện”, hội nhập, nhưng về nhà phải nói tiếng Ê Đê với nhau. Đi xe hơi, ăn tiệc buffet, nhảy múa hiện đại, uống rượu Tây, nhưng ai cũng yêu giấc ngủ ở nhà dài, chơi được đing Pút, đing Năm, ăn được món kiến trộn, canh cà đắng, si mê dân ca Ê Đê, dệt được thổ cẩm... Nửa thế kỷ qua, Ama H’rin đã định hướng con đường phát triển cho cộng đồng như thế. Giàu có, sung túc, nhưng vẫn có hồn cốt riêng, sức mạnh riêng, vẻ đẹp riêng. Hỏi ra mới biết Ama H’rin luôn nói với làng về sắc thái Ê Đê, truyền thống riêng. Nhưng ông không cưỡng ép ai cả, chỉ vạch hướng, đưa ra tư tưởng, khuyên. Ông thực hiện điều đó triệt để trong căn nhà dài của ông, gia đình mình. Cả làng thấy “đúng quá”, cứ như không có sự lựa chọn nào khác hay hơn, làm theo. Ông “lái” họ đi tự nhiên. Làm sao người ta không tin yêu ông khi lúc lập làng, đất mình mở, nhưng cà phê trồng ra bốn mươi mẫu ông chia đều mình với mọi người. Tinh thần đùm bọc và sẻ chia nó đi xuyên suốt ở cái làng này đến ngày ông qua đời. Làm sao người ta không thấy an toàn và ấm cúng khi sống cùng ông, bởi ngay lúc trần ai, khốn khổ nhất ông vẫn tươi cười. Đây là một cái làng mà sự thanh bình, an lạc, ấm no, bình đẳng đạt đến tận cùng. Một các làng sâu sắc và sang trọng. Bao thập niên qua nó trở thành mô hình mẫu mực ở cao nguyên, và cả nước không thể có cái thứ hai. Khi tất cả các buôn ở trong lòng Buôn Ma Thuột đã dần biến mất hình hài cả, từ Alê A, Alê B, Păm lăm, Kô Sia, thì Akô Dhông vẫn sừng sững, thách thức biến thiên thế cuộc, không bị tan vỡ. Điều kỳ diệu ấy được xây trên nền móng của tầm nhìn xa trông rộng và trái tim nhân ái vô tận của nhà kiến tạo Ama H’rin. Ông là thủ lĩnh, Kiến trúc sư trưởng, Nhà tổ chức kinh tế xã hội, “Nhà” văn hóa, và là linh hồn sống động của làng. Bao nhiêu năm không lạc “qui hoạch”, không vỡ kiến trúc, không tan thiết chế gia đình, xã hội, giữa một thành phố khổng lồ năng động Buôn Ma Thuột thế kia. Một cái buôn kỳ lạ. Một cái làng sơn cước “thâm hậu”.

Nội lực mạnh mẽ của nó như chiếc xà gạt vắt ngang vai ông trên phiến đá mà một nghệ sĩ điêu khắc nào đó vừa từ vùng biển Ngũ Hành Sơn tận Đà Nẵng lên tạc lại đặt nơi phần mộ của ông.

 
 
 Kiến trúc truyền thống “chung sống” với kiến trúc hiện đại.

Ưỡn mình trước thời vận

Ngồi bên mộ ông, rồi tôi lại đứng lên, dạo quanh làng, đặt chân lên các căn nhà dài. Cứ thế. Nhưng tôi biết, thời gian bao giờ chẳng thách thức mọi giá trị trên đời. H’Len Nie, một người phụ nữ tuổi 43 rắn rỏi đang chỉ huy cất thêm một căn nhà dài phía trước mảnh đất còn lại của gia đình mình. Nhờ qua nhiều mối lái H’Len mới mua được mớ gỗ căm xe này, không như xưa muốn có gỗ cất nhà sàn bà con cứ lên rừng đưa về. H’Len bảo tôi dù thời cuộc thế nào cô cũng phải giữ truyền thống, vì nó là một vẻ đẹp riêng biệt, thấy gần gũi với sở thích và tâm hồn mình, như Ama H’rin đã làm. Cái khác là xưa nay mọi căn nhà dài do đồng bào xúm lại cất cho nhau, nay thì H’Len thuê người Kinh làm. H’Len lý giải sự khác căn bản này là để nhanh gọn hơn, vì đồng bào thi công chậm, kỹ thuật máy móc không đầy đủ, nên giá thành sẽ cao hơn. Rất thức thời, vấn đề là linh hồn của nhà sàn, hình dáng kiến trúc, và người sử dụng nó chứ không phải đám thợ nào đã cất.

Nhưng H’Len không chịu được cảnh gần đây giữa các nhà sàn với nhau lại dựng nên những cái tường rào. Nhà sàn này và nhà sàn kia ngăn cách. Điều này trước đây không có. Xưa nay mỗi căn nhà dài là một gia đình, kể cả nhiều thế hệ. Và toàn buôn là một gia đình lớn thôi, chứ không có cảm giác mỗi căn nhà dài là một “cát cứ”, mạnh ai nấy biết, nấy sống, nấy thở. Nhà ở thì riêng, nhưng có những thứ còn phải chơi chung, ăn chung, cúng lạy chung, buồn vui chung. Đường qua làng, mặt trước, mặt sau xưa vẫn tuồn luôn không rào, chẳng bao giờ để ý đến mất mát, an ninh. Người ta sống yêu nhau và tin nhau, tin cả người bên ngoài nếu đặt chân đến phố Akô Dhông. Niềm tin không giới hạn, màu da, xuất thân, hay sắc tộc.

Ama H’rin “ra đi”, Akô Dhông có cái gì đó lành lạnh, chùng xuống, giãn ra. Tôi có cảm giác cái buôn huyền thoại này như mất thỏi nam châm nguồn cội, điểm tựa; có cái gì đó hơi chơi vơi ở nơi này, giờ đây. Mặc dù nhìn hình thái kiến trúc và các tổ người vẫn chưa xáo trộn nhiều vẻ bề ngoài của nó. Đúng như H’Len lo, tôi nhận ra tường rào xuất hiện khắp. Mà không chỉ tường rào, mỗi lối vào nhà sàn đã bắt đầu xuất hiện những chiếc cổng sắt khổng lồ. Đặc tính cái gì cũng đòi nắm cho chắc, giữ cho kỹ, và hoài nghi tất cả này buôn làng thuần hậu Akô Dhông rõ đã học ở người Kinh tôi rồi_học các làng Việt, khu phố xung quanh. Xưa Akô Dhông sống thả lỏng, an nhiên, bền bỉ mình là mình, sức đề kháng dũng mãnh, dũng mãnh đến ngoạn mục. Nay Akô Dhông hình như đã không gồng mình chịu nổi nên cuốn vào vòng xoáy xu thế chung. Của cái vật chất đã không còn xem thường, sự cảnh giác khi sống cũng tăng lên, an ninh bỗng chú ý. Xung quanh sống bằng lý trí thì tôi không thể sống bằng trái tim. Cấu trúc vật thể và phi vật thể thế là giãn ra, rạn dần.

Rạn dần như H’Len nhận ra. Rằng, đất chật người đông ra, nhiều nhà chẻ đất ra bán để giải quyết cuộc sống, gần đây. Người không phải con dân sinh ra và lớn lên ở làng đã bắt đầu xuất hiện. Nhà của “Công dân mới” biết liền, nếu không mọc ra nhà xây hộp diêm mái bằng thì cũng một cái nhà sàn cao to khác thường, diêm dúa hơn, cổng rào to hơn, muốn nhấn chìm những nhà sàn truyền thống xung quanh, và cũng ít thăm thú hỏi han người làng. Những người trong làng bảo, xưa một căn nhà mọc lên, người ta nhìn tới nhìn lui xem Ama H’rin có mát ruột, cả làng có tán phục không, thì nay tự ý mỗi người tung hoành trên miếng đất và đồng vốn của mình.

 
 Cầu thang lên nhà sàn mang tinh thần Mẫu hệ.
 
 
Già làng Ama H’rin đứng trên căn nhà dài của mình lúc còn sống.

Mỗi người đều có quyền làm gì trên mảnh đất và trong nhà của mình. Buôn mới hôm nào thuần hậu, chưa có cảm giác “đau”, “tiếc” là gì. Nay thì nhiều người bỗng bất lực cho cái của quí là cấu trúc của làng vào một ngay mong manh, không như xưa nữa. Xưa mình Ama H’rin nói, ai cũng nghe. Nay ai cũng nói, nhưng ít người nghe. Hoặc ít khi buồn nói, khuyên bảo nhau nữa. Họ bảo tôi suốt năm qua họ ê chề cho cái Nhà hàng, khách sạn khổng lồ với thứ kiến trúc xa lạ nằm ngay đầu làng. Bao nhiêu căn nhà sàn truyền thống từ tốn nép mình trong thiên nhiên, thanh thoát như tiếng chiêng, với màu sậm của gỗ và màu đỏ của mái gạch, bỗng lạc lõng trước công trình bê tông diêm dúa. Khách sạn và nhà hàng Yang Sing đó dĩ nhiên khai thác giá trị của buôn Akô Dhông để sinh lợi, vì nếu không vì sức hấp dẫn của Akô Dhông cho du khách thăm thú thì nó không có mặt ở đây làm gì. Chỉ có điều nó như “đè” cái buôn này xuống để vắt sữa, thay vì khiêm tốn nương theo từ kiến trúc đến văn hóa, tâm hồn. Y Dắc, con trai của “Kiến trúc sư trưởng” Ama H’rin tâm sự với tôi rằng: “ Dĩ nhiên là ông già sẽ rất buồn, khi phải thấy những công trình kiến trúc xa lạ xuất hiện trong buôn mà mình suốt đời nhào nặn ra nó và gìn giữ !”. Còn Y Phôn_cũng là một người thân của buôn này, dù xuất thân tận một làng ở Ea H’leo cách 150 cây số_ kể tôi rằng, trước khi mất Ama H’rin hay tâm tư với anh rất nhiều vì sợ tan biến không gian sống đặc trưng, bản sắc kiến trúc Ê Đê, cũng như sự chan hòa yêu thương giữa người với người khi ông không còn trên đời.

Vốn có nền tảng về kinh tế và giáo dục nên Akô Dhông từ lâu đã hòa điệu với cuộc sống. Hòa điệu nhưng vẫn giữ cốt cách của người xứ núi, cháu con của đại ngàn. Tôi không lý giải được những dịch chuyển đổi thay hay chọn lựa ở họ trước cuộc sinh tồn. Nhưng tôi cảm nhận được cái gì họ tiếp thu với tình yêu thương và cái gì là miễn cưỡng đón nhận. Tôi hỏi Y Dắc, con Chủ làng đã dưới mồ, cũng là một người thành danh_ca sĩ: “ Truyền thống của người Ê Đê là bỏ mả (pơthi)mà. Con người phải hòa vào đại ngàn, trở về với “bến nước ông bà”, khi ra đi, mà không cần mồ mả. Cớ sao như ông già đây, và cả cái nghĩa địa bê tông và gắn đầy thánh giá hiện ra kia ?”. Y Dắc bảo rằng, là người tạo lập ra làng, nên giới trẻ mai sau cần thiết phải biết điều đó, để tự hào về làng mình có lai lịch, quá khứ. Có nghĩa rằng, bỏ mả là việc sẽ không xảy ra, nghĩa là một phần truyền thống bị chủ động khước từ. Đời sống duy vật và tâm linh mới quét qua, thì nó có tránh cái buôn Akô Dhông này đâu. H’Len, cũng theo catholic, mộ ông Tlung Arul cha cô cũng có cây thánh giá như mộ Ama H’rin, thì trả lời rất tự nhiên: “ Chúa dạy, là con người thì phải nhớ nguồn cội, ông bà, cha mẹ. Nấm mộ là cách để nhớ!”.

"Bản sắc", bao lâu nữa!?

Những người trẻ ở Akô Dhông vẫn chơi xe máy, xe hơi, điện thoại di động đủ kiểu. Họ vẫn quần Jean, áo Pull, váy hiện đại, chứ không một váy thổ cẩm. Như Y Dăc hát bất cứ thứ nhạc pop, rock nào anh thấy hay, có cảm xúc. Vậy thì cái truyền thống nhiều khi chỉ là mong muốn ướt lệ, vì nó có giá trị. Chứ không hẳn nó bất biến, đánh gục và trói con người lại thả chìm trong đó. Ama H’rin tạo ra được không gian kiến trúc đặc trưng cho Akô Dhông, nhưng tâm hồn của những người bên trong từng căn nhà dài, ông không thể ngăn cản được sự vận chuyển của cảm xúc, mà cảm xúc thì nó đi cùng cuộc sống.

Như H’Len đó, có lường được đâu một ngày đi thuê những người không sống và không biết gì về nhà dài Tây Nguyên dựng những căn nhà dài ấy cho cảm xúc của mình. Nàng nói nhà sàn của nàng vẫn nguyên mẫu hồn phách Ê Đê, đủ hai bếp lửa trên và dưới, chiêng, ché, kpan, trống, sàn…, vì “mình không thể xa cảm xúc chứa chan thảo mộc đó”. Đó là quyền của H’Len. H’len bảo nếu nàng là trưởng buôn sẽ nói cộng đồng không cho những kiến trúc thô bạo, vô duyên, lạc điệu, như cái khách sạn/ nhà hàng kia ra đời khống chế cả không gian thiêng liêng của buôn. Nhưng luật pháp nào cho nàng làm điều đó, khi người ta xây dựng công trình theo giấy tờ, được luật pháp bảo hộ. Giấy phép xây dựng thì không tính đến lịch sử của làng và bản sắc văn hóa. Vật chất và văn hóa nhiều lúc không đồng hành. Cũng như luật pháp và luật tục vậy, dù cả hai đều có giá trị cho con người, nhưng không gian tồn tại lại khác, và thời đại của nó. Thôi thì giữ được chừng nào giữ, bản sắc cộng đồng, văn hóa ngàn đời. Trật tự tự nhiên nó sẽ “dạy” cho bạn chuyển dịch và tồn tại.

 
Kiến trúc truyền thống “chung sống” với kiến trúc hiện đại.

H’Len đủ nội lực của một người Mẹ Ê Đê với tình yêu sâu nặng truyền thống để giữ cho căn nhà sàn cô đang cất thật “Ê Đê”. Y Dắc đủ sức để hát nhạc hiện đại nhưng vẫn mang hồn cốt núi rừng, ở cái tuổi trên 40 và được trải qua hành trình dài được Ama H’rin nạp cho năng lượng. Nhưng những người trẻ, lớn lên khi Ama H’rin đã khuất bóng, có đủ sức để đi theo con đường khó khăn đó_cái con đường hội nhập nhưng vẫn là chính mình, nhận ra mình là ai giữa đám đông, trong nếp ở, hơi thở, lời ăn tiếng nói ?! Giữ bản sắc sơn nguyên được hơn nửa thế kỷ qua đã là kỳ diệu, khi mà bon, plei, buôn ở nhiều nơi đều bất khả. Cả Buôn Ma Thuột đã nở tưng ra, mỗi ngày một to đùng, sinh động và sôi động, ồn ào và bát nháo, cởi mở và tàn bạo, thì “không gian” của Kiến trúc sư trưởng Ama H’rin thành một “cõi riêng” mà được à.

Ông là một trong ba già làng Tây Nguyên đầu tiên tôi được kết thân, từ mười chín năm qua. Và buôn của ông là cái buôn nổi tiếng nhì Tây Nguyên. Có điều cái buôn nổi tiếng nhất là Buôn Ma Thuột kia chỉ còn cái tên, thành địa danh cho một thành phố thủ phủ Tây Nguyên; còn buôn ông đang “sống”. Đến Buôn Ma Thuột ta hỏi đường Trần Nhật Duật không chắc nhiều người biết, nhưng hỏi buôn Akô Dhông thì đố ai không biết, thiên hạ lớn bé đều có thể chỉ cho bạn. Từ đại lộ Phan Chu Trinh, đường vào Akô Dhông lướt qua một một loạt đường đầy tên văn nhân nổi tiếng chắn ngang như Đào Tấn, Văn Cao, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến… Nhưng ở xứ này, cũng chả ai để ư mấy vị văn nhân dù nức tiếng đó hơn cái cụ thể, có thật ở xứ này, là cái làng Akô Dhông của Ama H’rin huyền thoại đó. Nó đang “sống”, nhưng mọi người trong nó không biết nó “sống” đến khi nào trước cơn sóng thần của thời đại và cơn lốc của đô thị hóa, bị đồng hóa hoặc và tự đồng hóa. Người Việt giờ còn không nhận ra đâu là bản sắc của mình, từ chỗ ở đến quần áo trên người, vật dụng trên tay, xe cộ để chạy, thú vui giải trí. Song chẳng lẽ người Ê Đê, một sắc dân miền sơn cước, và những người ở Akô Dhông này làm được à !? Hẳn sẽ không riêng tôi tiếp tục nghiên mình, nếu họ làm được như vậy. Vái lạy nấm mộ già làng khả kính và nhìn cho thỏa thê bản sắc một làng sơn nguyên ngạo nghễ giữa phố đô hội lần nữa, tôi chậm bước ra phía đầu làng. H’Len Nie bày tỏ rằng mỗi sáng chạy thể dục ngang mộ Ama H’rin nàng thường đứng thẫn thờ trước mộ, và hay nhủ ông: “ Già làm sao linh thiêng về kết nối mọi người, để cuộc sống được như xưa, chan hòa và đoàn kết. Làm cho mọi người biết quí, gìn giữ vẻ đẹp của làng mình, và tiếp tục như vậy!”. Vong linh ông có làm được điều cô H’Len Nie cầu mong không, hay ông đã xong sứ mệnh của mình, dù ảnh hưởng của ông trên cao nguyên lớn vô cùng, như ngày ông ra đi, dù chỉ là một già làng thôi, nhưng rất nhiều buôn làng ở Tây Nguyên đến tiễn ông, kể cả những quan chức cao của chính quyền từ Hà Nội. Một tiệm internet tiễn biệt tôi, mà internet và toàn cầu hóa, nói như Thomas L.Friedman đạo đức khốc liệt của nó là làm “phẳng” thế giới ra không thương tiếc bất cứ thứ gì.

(1a,b): Từ mộ ông nhìn vào ngôi nhà dài ông từng ở lúc còn sống, và cả buôn Akô Dhông.

(2a,b,c): Phần mộ của già làng Ama H’rin, và tượng người ta tạc về ông.

(3): Buôn Ako Dhông ở hai bên đường làng.

(4a, b,c.d): Kiến trúc truyền thống “chung sống” với kiến trúc hiện đại.

(5a, b): Kiến trúc xa lạ đe nạt kiến trúc truyền thống nhà dài Ê Đê.

(6): Bắt đầu ngăn chia không gian của làng, và cổng, rào xuất hiện.

(7): Già làng Ama H’rin lúc còn sống với cây kèn Đinh pút

(8): Già làng Ama H’rin trong trang phục thổ cẩm Ê Đê và chơi nhạc cụ tre nứa truyền thống.

(9): Già làng Ama H’rin đứng trên căn nhà dài của mình lúc còn sống.

(10): Tác giả và già làng Ama H’rin trong một lần chụp ảnh chung tại một lễ hội ở cao nguyên.

(11): Cầu thang lên nhà sàn mang tinh thần Mẫu hệ.

(12): Mặt trước nhà sàn và cầu thang tạc bộ ngực biểu tượng cho sự phồn sinh của Phụ nữ.

(13): Ama H'rin bên chiếc cầu thang tạc bộ ngực phụ nữ_Mẫu hệ, theo tinh thần người Ê Đê về nguồn cội.

(14): Những căn nhà dài như "một tiếng chiêng ngân"(lời trong "Trường ca Đam" san của người Ê Đê).

(15): Xe hơi là vật dụng bình thường của cộng đồng buôn Ako Dhong thời hiện đại.

(16): Khung cảnh toàn buôn Ako Dhong ở một vị trí chụp.