Trước Cách mạng Tháng Tám, Người coi giáo dục là một bộ phận của công cuộc giải phóng dân tộc. Bản thân Người đã tích cực tham gia huấn luyện, đào đạo đội ngũ cán bộ cách mạng ngay từ khi trở về đất Quảng Châu (Trung Quốc): tổ chức lớp học, biên soạn tài liệu, trực tiếp giảng dạy. Người thực sự là một thầy giáo cách mạng đầu tiên. Nhiều học trò của Người sau đó cũng là những thầy giáo, những nhà giáo dục đi sâu vào phong trào quần chúng vừa dạy văn hóa, vừa tuyên truyền cách mạng cho đồng bào…
Bác Hồ thǎm đại biểu giáo viên toàn miền Bắc năm 1958.
Cách mạng Tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc. trong hoàn cảnh mới, giáo dục trở nên hết sức quan trọng và cấp bách. Chính vì vậy, Hồ Chủ tịch đã đặt nhiệm vụ giáo dục ở hàng thứ hai trong khẩu hiệu “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Người đánh giá rất cao đội ngũ giáo viên: “anh chị em là đội tiên phong trong sự nghiệp tiêu diệt giặc dốt. Anh chị em chịu cực khổ, khó nhọc, hi sinh phấn đấu để mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào, để xây đắp nền văn hóa sơ bộ cho dân tộc”(1). Người nhắc nhở phải “chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”(2).
Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên phải thật thà yêu nghề mình. “Còn gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng CNXH và CNCS? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo, là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân thì làm sao mà xây dựng CNXH được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang, ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo thì phải sửa chữa”(3). Người phân biệt rõ vị trí khác nhau của người thầy trong xã hội cũ và xã hội mới. Xưa nghề thầy giáo là gõ đầu trẻ để kiếm cơm ăn, nay là sự nghiệp quan trọng “trăm năm trồng người”, để thực hiện nhiệm vụ nặng nề và cao cả đó, người thầy phải có năng lực phẩm chất cao, phải có lòng yêu nghề, yêu trẻ, phải “làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”(4).
Để làm tốt công việc giảng dạy của mình, người giáo viên còn phải hình thành cho mình hàng loạt những năng lực sư phạm khác như năng lực dạy học, năng lực ngôn ngữ, năng lực tổ chức, năng lực giao tiếp…
Trong Đại hội chiến sĩ thi đua toàn Ngành Giáo dục ngày 21-2-1956, Bác đã ân cần căn dặn: “Các cô, các chú là những thầy giáo, những cán bộ giáo dục đều phải luôn luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu”(5).
Tại buổi nói chuyện chỉnh huấn giáo viên phổ thông toàn miền Bắc, năm 1958, Người đã nhắc lại câu “giáo bất nghiêm, sư chi đọa” - dạy không nghiêm là do thầy lười nhác.
Để nhắc nhở trách nhiệm cao cả, đáng trân trọng của người thầy, Người căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(6). Khắc ghi lời Bác dặn, kế thừa truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết sách nhằm phát huy mọi tiềm năng của con người, trong đó có đội ngũ thầy, cô giáo và những người làm công tác quản lý giáo dục. Nguồn lực giáo dục, đào tạo trước hết là nguồn lực con người, trong đó thầy cô giáo và cán bộ quản lý giáo dục là nguồn lực quan trọng nhất. Luật Giáo dục được Quốc hội thông qua ngày 11-12-1998 đã ghi rõ: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người phát triển toàn diện có đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”(7).
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, sự nghiệp giáo dục - đào tạo càng trở nên quan trọng. Trước những đòi hỏi đó, vai trò của người thầy càng có ý nghĩa. Sứ mệnh, nhiệm vụ của những nhà giáo hơn lúc nào hết rất nặng nề và người thầy cần phải tạo dựng cho mình những phẩm chất và năng lực nhằm cống nhiến nhiều hơn nữa cho Tổ quốc nói chung, sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói riêng.
Để thực hiện được lời dạy cuả Bác, người thầy cần phải đẩy mạnh việc nghiên cứu khoa học, phải luôn tìm tòi, sáng tạo không ngừng để tiếp nối một cách xứng đáng thế hệ những người đi trước, không ngừng rèn luyện, hoàn thành tốt vai trò thiêng liêng đối với xã hội. Đồng thời đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, có phương pháp làm việc khoa học, có ý chí vượt khó và đặc biệt phải có tâm huyết với nghề nghiệp mà mình đã lựa chọn. Người thầy không thể tự bằng lòng với những kiến thức đã có mà phải nâng cao, vươn xa hơn về nhận thức, tiếp cận tốt hơn với phương pháp giảng dạy tích cực nhằm tạo ra những “sản phẩm” tốt đáp ứng có hiệu quả nhu cầu của xã hội, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, CNH, HĐH đất nước.
(1). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H,2001, tr.220. (2). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H,2001, tr.501. (3).Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG H, 2001, tr.329-330. (4). Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H,2001, tr.46. (5).Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, H,2001, tr.126-127. (6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H,2001, tr.222. (7).Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr.77.
Nguồn Tạp chí xây dựng Đảng