Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen (28/11/1820 - 28/11/2020): Những cống hiến vĩ đại mãi trường tồn

Năm 2020, chúng ta long trọng kỷ niệm 200 năm ngày sinh Phơ-ri-đơ-rích Ăng-ghen (Friedrich Engels) - thiên tài của nhân loại. Cả cuộc đời mình, Ăng-ghen đã dành tất cả tình cảm và trí tuệ cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, trở thành một trong những nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc nhất trong lịch sử nhân loại.

Cùng với Các Mác (Karl Marx), những tư tưởng của Ăng-ghen về triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học… đến nay vẫn vẹn nguyên tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước ta.

Nhà lý luận lỗi lạc, người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản

Ăng-ghen sinh ngày 28-11-1820 ở thành phố Ba-rơ-men tỉnh Ranh, Vương quốc Phổ (nay là nước Đức) trong một gia đình là chủ xưởng dệt. Từ nhỏ, ông đã sớm bộc lộ năng khiếu về ngoại ngữ.

Ở tuổi 17, theo yêu cầu của cha, Ăng-ghen buộc phải rời bỏ trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu công việc kinh doanh. Nhưng trong khoảng thời gian này, ông đã tự học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca.

Một năm sau đó (tháng 6-1838), khi ở tuổi 18, Ăng-ghen đến làm việc tại Văn phòng thương mại ở thành phố cảng Ba-rơ-men, tại đây Ph.Ăng-ghen được mở rộng tầm hiểu biết về nền văn học và báo chí nước ngoài cũng như tác động của cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã chín muồi ở Đức hồi bấy giờ và chính điều đó đã thúc đẩy việc hình thành các quan điểm dân chủ-cách mạng ở Ph.Ăng-ghen.

19 tuổi, Ăng-ghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hê-ghen, chính thức không trở thành thương gia như ý muốn của bố mà hiến thân cho một sự nghiệp khác cao cả hơn.

Mùa xuân 1842, Ăng-ghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật báo tỉnh Ranh). Tháng 11-1842, ông quyết định sang Anh để thực tập buôn bán. Trên đường sang Anh, Ăng-ghen đã thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Koln và đã gặp Các Mác, Tổng biên tập tờ báo. Ăng-ghen đã ở lại Anh trong 2 năm và trong những năm tháng ở Anh, Ăng-ghen dù chưa hoàn toàn đoạn tuyệt với quan điểm của phái Hê-ghen trẻ, nhưng ông lại có ý nghĩ quyết định trong việc dứt khoát từ bỏ những quan điểm duy tâm để trở thành nhà duy vật.

Từ sau cuộc gặp gỡ với C.Mác, Ph.Ănghen đã trở thành người bạn, người đồng chí gần gũi thân thiết của C.Mác, xây đắp nên một tình bạn cảm động và vĩ đại nhất của các lãnh tụ giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tình bạn, tình đồng chí khăng khít, thủy chung, cảm động, hiếm có của Mác và Ăng-ghen đã từng được Lênin khẳng định: “Giai cấp vô sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai nhà bác học kiêm chiến sỹ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì là cảm động nhất trong những truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người”.

Từ khi cuộc đời Mác và Ăng-ghen gắn liền với nhau, sự nghiệp của hai ông đã trở thành sự nghiệp chung. Sau khi C.Mác qua đời (năm 1883), Ph.Ăng-ghen đã tập trung sức lực và trí tuệ tiếp tục sự nghiệp tổ chức, giác ngộ giai cấp công nhân, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác, trong đó phải kể đến việc ông đã đảm đương một khối lượng công việc vô cùng nặng nề, khó khăn để chỉnh lý, biên tập và cho xuất bản quyển II, quyển III bộ “Tư bản” mà C.Mác chưa kịp hoàn thành. Đây là tác phẩm lớn nhất, vĩ đại nhất của Các Mác và chủ nghĩa Mác. Bằng việc làm này, “Ăng-ghen đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó Ăng-ghen cũng không ngờ là đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ không bao giờ phai mờ” như Lênin đã nhận xét.

Ngoài ra, Ăng-ghen còn viết nhiều tác phẩm nổi tiếng, có giá trị như: Chống Đuy-rinh” (1878), góp phần to lớn cho việc hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Mác; Nguồn gốc gia đình; Chế độ tư hữu và nhà nước (1884), Lút-vích Phoi-ơ-bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886); Biện chứng tự nhiên, Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894)...

Ph.Ăng-ghen mất ngày 5-8-1895 ở London, Anh. Thi hài ông sau đó được hỏa táng và thủy táng xuống biển.

Những cống hiến vĩ đại cho nhân loại

Trong cuộc đời mình, kế thừa những trào lưu tư tưởng tốt đẹp nhất của loài người đến thế kỷ XIX (như triết học Đức, kinh tế chính trị Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp) và tổng kết thực tiễn trong thời đại mình, Ph.Ăng-ghen cùng C.Mác đã sáng tạo ra một học thuyết hoàn chỉnh, chặt chẽ và chính xác, trong đó tính khoa học thống nhất với tính cách mạng triệt để. Toàn bộ học thuyết của C.Mác và Ph.Ăng-ghen là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học rất nghiêm túc và đồ sộ, giải đáp được nhiều vấn đề mà nhân loại đặt ra.

Trong đó, phát hiện vĩ đại đầu tiên và quan trọng nhất là đã bảo vệ và phát triển triết học duy vật, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, mở ra một bước ngoặt căn bản trong triết học, cung cấp cho loài người một cách nhìn mới mẻ, một vũ khí sắc bén để nhận thức và cải tạo thế giới. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là thành quả vĩ đại của tư tưởng khoa học, đã phát hiện ra tính quy luật của sự phát triển xã hội và tính tất yếu của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn.

Cùng với đó, hai ông đã tạo ra một học thuyết kinh tế mới, đem lại một cuộc cách mạng thực sự trong kinh tế chính trị học. Đó là tìm ra quy luật giá trị thặng dư. Đây được xem là phát hiện vĩ đại thứ hai của học thuyết Mác. Trên cơ sở dự báo có tính khoa học và cách mạng mang bản chất nhân văn sâu sắc, Ph.Ăng-ghen truy tìm nguyên nhân sâu xa của những tệ nạn xã hội, những nỗi thống khổ của giai cấp công nhân: đó là chế độ sở hữu tư nhân tư sản. Với những phát hiện và những tư tưởng, quan điểm thể hiện trong các công trình nghiên cứu ngay từ thời gian đầu của Ph.Ăng-ghen, đã gợi mở và tạo cảm hứng cho C.Mác một hướng nghiên cứu mới, đúng đắn về xã hội tư bản. Từ đó C.Mác đã phát hiện ra quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Cùng với C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã vạch rõ quá trình phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những mặt tiến bộ và vạch rõ những khuyết tật, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản; từ đó đã chỉ ra rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới, cao hơn, tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

Một cống hiến quan trọng khác phải kể đến của Ph.Ăng-ghen, được coi là phát hiện vĩ đại thứ ba của học thuyết Mác là việc phát hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Từ bỏ vị trí xuất thân của mình, Ph.Ăng-ghen đã lăn lộn, gắn bó với phong trào công nhân, với tấm lòng trung thành vô hạn và lập trường kiên định, với trí tuệ thiên tài và sự mẫn cảm về chính trị, Ph.Ăng-ghen đã quan sát, cảm nhận trực tiếp nhu cầu bức thiết của một giai cấp bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hội tư bản và phát hiện ra lực lượng xã hội có vai trò chủ đạo trong cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản - đó là giai cấp công nhân. Không chỉ phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, hai ông còn vạch ra vai trò của đội tiền phong (chính đảng) của giai cấp công nhân. Ph.Ăng-ghen đã cống hiến toàn bộ nghị lực phi thường, trí tuệ uyên bác và trái tim nồng nhiệt của mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, sự nghiệp xây dựng và củng cố các đảng của giai cấp vô sản. Cống hiến của Ph.Ăng-ghen đối với phong trào công nhân quốc tế được thể hiện sinh động thông qua 10 năm tồn tại của Quốc tế I và hoạt động trong phong trào công nhân quốc tế cho đến tận cuối đời.

Là một nhà tư tưởng quân sự thiên tài, Ph.Ăng-ghen còn là người có công đặt nền móng xây dựng và phát triển học thuyết mác-xít về quân đội, về chiến tranh, bảo vệ thành quả cách mạng. Những đóng góp của Ph.Ăng-ghen trong lĩnh vực khoa học, nghệ thuật quân sự đã góp phần làm phong phú, sâu sắc hơn di sản lý luận của chủ nghĩa Mác trong kho tàng tri thức, văn hóa nhân loại, một mẫu mực về sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nhận thức, giải thích một lĩnh vực đặc biệt phức tạp là chiến tranh và hòa bình, quân sự và quốc phòng, khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh cách mạng, xây dựng quân đội cách mạng và bảo vệ Tổ quốc.

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có những tư tưởng thiên tài của Ph.Ăng-ghen, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và hiện nay đang lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Tư duy biện chứng của Ph.Ăng-ghen về phương thức phát triển “rút ngắn” cho thấy rõ, nước ta có điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng của Ph.Ăng-ghen về triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học... còn có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước ta, nhất là trong việc nhận thức và làm sáng tỏ quy luật vận động tất yếu của cách mạng Việt Nam, giúp chúng ta nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện phát triển nền kinh tế. Đảng đã khẳng định: “sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng".

Qua 35 năm đổi mới đất nước cho thấy, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn thành tựu và cách làm trước đây, mà là khẳng định những gì trước kia hiểu đúng làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai làm sai, hoặc những gì trước kia đúng nhưng nay không còn phù hợp, bổ sung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cách mạng. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, xây dựng hiệu quả hơn. Quá trình này không phải là xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó, nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của nó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, dùng lý luận đó làm cơ sở quan trọng để đánh giá tình hình, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm cơ sở xuất phát để hoạch định đường lối đổi mới.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã nhận thức sáng tỏ hơn sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, hướng đến xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thấm nhuần tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, của Ph.Ăng-ghen về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.

Nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rõ hơn, trên cơ sở đó Đảng đề ra và từng bước bổ sung, phát triển đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Thành tựu và những kinh nghiệm, bài học đúc kết từ thực tiễn tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới”.

Có thể nói, phương pháp luận, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, tư duy biện chứng của Ph.Ăng-ghen nói riêng, là một hệ thống tri thức quý báu, đòi hỏi cần tiếp tục được nghiên cứu nghiêm túc để có thêm cơ sở khoa học cho bổ sung, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học; để tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Theo TTXVN