Nhìn lại chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng

Ngày 20-11, tại Hà Nội, Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam và Tổng cục Lâm nghiệp đã tổ chức hội thảo “Đánh giá hiệu quả thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng và sự tham gia của các bên liên quan tại địa phương”.

Theo báo cáo tại hội thảo, nguồn thu từ chi trả dịch vụ môi trường rừng từng bước trở thành một nguồn tài chính ổn định, khoảng 1.000-1.300 tỷ đồng/năm. Từ nguồn thu này giúp giảm áp lực chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư lâm nghiệp hàng năm từ 22-25%.

Với mức chi trả trung bình 250.000 đồng/ha, chính sách này đã bổ sung thêm thu nhập trung bình từ 1,8-2 triệu đồng/hộ/năm cho gần 349.000 hộ gia đình cùng hơn 5.700 nhóm hộ, cộng đồng tham gia quản lý, bảo vệ gần 5 triệu ha rừng trên toàn quốc.

Ảnh minh họa.

Ông Nguyễn Bá Ngãi, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp cho biết, ngành lâm nghiệp đặt ra 3 tiêu chí thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng là minh bạch, công bằng và bền vững.

Theo ông Ngãi, minh bạch là thiết lập lại thể chế, hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương chi tiền với chính sách rõ ràng và minh bạch đến tận chủ rừng, người được nhận dịch vụ đã có đóng góp thực sự hiệu quả vào môi trường rừng. Đồng thời để minh bạch sẽ đưa hệ thống cơ quan giám sát vào hoạt động tốt hơn.

Công bằng cũng phải đảm bảo ở hai khía cạnh. Một là người dân tạo ra dịch vụ môi trường rừng thì phải được hưởng quyền đó. Hai là, cơ quan, cá nhân, đơn vị nào sử dụng dịch vụ phải chi trả dịch vụ. Nếu người dân được trả dịch vụ đó thì cũng cần công bằng ở chỗ ai đóng góp nhiều sẽ được nhiều.

Bền vững là phải tạo ra được hai tiêu chí quan trọng là đáp ứng được yêu cầu của ngành lâm nghiệp là bảo vệ phát triển rừng tốt và người dân khi tham gia thực sự được hưởng quyền lợi đó, tạo ra thu nhập, động lực để bảo vệ và phát triển rừng.

Tuy nhiên, các nguồn thu phục vụ chi trả dịch vụ môi trường rừng chính hiện mới khai thác được từ thủy điện, du lịch, nước sạch. Một số dịch vụ khác như tích lũy carbon, nuôi trồng thủy sản, nước công nghiệp vẫn còn khó khăn. Bên cạnh đó, dịch môi trường rừng vẫn còn không đồng đều trên cả nước. Nơi nào có dịch vụ môi trường rừng nơi đó có tiền thu, còn nơi nào không có dịch vụ môi trường rừng nơi đó không có nguồn thu, từ đó tạo sự chênh lệch.

Tại hội thảo, các đại biểu cũng thảo luận về gắn kết chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng với các chính sách khác đang được triển khai thực hiện như: Tái cơ cấu các nông, lâm trường quốc doanh, sáng kiến giảm phát thải khí nhà kính do mất rừng và suy thoái, hay thúc đẩy mô hình đồng quản lý trong hệ thống rừng đặc dụng… nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rừng ở Việt Nam trong tương lai.

Theo ông Phạm Hồng Lượng, Phó Giám đốc Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng và các thông tư hướng dẫn thi hành, cần xây dựng và triển khai thí điểm hệ thống theo dõi, đánh giá, giám sát phục vụ chi trả. Đặc biệt là thí điểm chính sách liên quan tới cơ sở sản xuất công nghiệp và nuôi trồng thủy sản...

Nguồn www.chinhphu.vn