Hiện đại hóa hệ thống thông tin quản lý biển đảo

Hệ thống thông tin tích hợp hiện đại sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc phát hiện dầu tràn, cứu hộ cứu nạn, cảnh báo sóng thần trên biển…

Nhu cầu tích hợp thông tin phục vụ quản lý tổng hợp và thống nhất về biển hải đảo đang
rất cần thiết. - Ảnh: Chinhphu.vn

 Ngày 27/3, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các đơn vị tổ chức Hội thảo quốc tế về Hệ thống thông tin phục vụ quản lý biển và hải đảo.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Minh Quang cho biết, Bộ đang khẩn trương xây dựng Luật Tài nguyên và môi trường biển. Nhiều chương trình quốc gia về nghiên cứu môi trường biển đã được tiến hành và thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở dữ liệu về biển và hải đảo Việt Nam chưa đồng bộ, chưa được sử dụng rộng rãi ở các bộ, ngành, địa phương.

Bộ trưởng Nguyễn Minh Quang nhấn mạnh, việc xây dựng hệ thống thông tin phục vụ quản lý biển và hải đảo là việc làm cần thiết nhằm cung cấp hệ thống thông tin rộng rãi, ứng dụng công nghệ trong việc quản lý, khai thác, sử dụng biển và hải đảo.

Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Nguyễn Văn Cư, Việt Nam có trên 1 triệu km2 mặt nước biển với 3.000 đảo, 28 tỉnh, thành có biển, khoảng 20 kiểu loại hệ sinh thái điển hình, trên 100 điểm khoáng sản đã được phát hiện. Chính vì vậy, nhu cầu tích hợp thông tin phục vụ quản lý tổng hợp và thống nhất về biển hải đảo đang rất cần thiết.

Theo các chuyên gia, hệ thống thông tin tích hợp sẽ hỗ trợ giám sát và kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên biển bất hợp pháp tại vùng biển thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; phát hiện dầu tràn và xác định nhanh nguồn gây ô nhiễm; dự báo và cảnh báo lan truyền sự cố dầu tràn; giám sát hệ sinh thái và hoạt động khai thác nhằm quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên biển, cung cấp thông tin kịp thời, chính xác phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển.

Hiện, đã có Hệ thống dữ liệu trong lĩnh vực trắc địa và bản đồ biển phục vụ nghiên cứu địa hình, địa mạo đáy biển, thềm lục địa. Hệ thống cơ sở dữ liệu biển, hải đảo Quốc gia về các kết quả điều tra cơ bản điều kiện tự nhiên, tài nguyên, môi trường của các vùng biển Việt Nam cũng đang được xây dựng và hoàn thiện.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã cùng thảo luận về hệ thống thông tin trong quản lý biển và hải đảo gồm: hệ thống radar biển, trạm quan trắc tổng hợp, khả năng phát triển các ứng dụng khai thác công nghệ viễn thãm, dự án Hệ thống quan sát tàu cá, vùng đánh bắt và nguồn lợi thủy sản bằng công nghệ vệ tinh.

Giám đốc Trung tâm Hải văn Trần Hồng Lam cho biết, hệ cơ sở dữ liệu khí tượng thủy văn biển có liên quan mật thiết tới thiết bị, công nghệ quan trắc chúng, thiết bị, công nghệ quan trắc tiên tiến, hiện đại sẽ thu được số liệu có độ tin cậy cao và ngược lại.

Hệ cơ sở khí tượng thủy văn biển cùng mạng lưới điều tra khảo sát sau khi hoàn thành, ngoài việc ứng dụng chúng theo các tính toán thông thường còn cho phép thực hiện những chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực biển và hải đảo trong giám sát tràn dầu trên biển; cứu hộ, cứu nạn trên cơ sở xác định trường dòng chảy bề mặt cho phép dự báo quỹ đạo vật thể trôi, từ đó có thông tin tương đối chính xác về vị trí tàu, thuyền gặp nạn giúp lực lượng cứu hộ rút ngắn được lộ trình và thời gian tiếp cận.

Đồng thời, dự báo đánh bắt hải sản, xác định được các khu vực nước trồi, chìm từ đó dự báo các khu vực mà đàn cá tập trung để thông báo cho ngư dân đánh bắt cá hiệu quả; cảnh báo sóng thần trên cơ sở xác định được vận tốc lan truyền của sóng biển; phát hiện tàu, thuyền lạ…

Công nghệ viễn thám cũng cần được đặc biệt quan tâm, bởi theo Giám đốc Trung tâm Viễn thám quốc gia Nguyễn Xuân Lâm, đây là công nghệ hỗ trợ đắc lực trong việc giám sát tài nguyên, môi trường biển, có thể giám sát nhiệt độ bề mặt nước, biến động đường bờ, hàm lượng muối, hàm lượng chất lơ lửng, chất diệp lục…

Các đại biểu cũng cho rằng, để phục vụ quản lý Nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo, cần nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng các cơ sở dữ liệu và hạ tầng kỹ thuật đã có tại Việt Nam (trạm thu ảnh vệ tinh viễn thám, hệ thống rada biển, hệ thống các trạm quan trắc môi trưởng biển, trạm định vệ tinh… ). Đồng thời, trang bị công nghệ tiên tiến và thông tin thích hợp; nâng cao năng lực cho đội ngũ quản lý và nghiên cứu về tài nguyên môi trường biển tại Việt Nam.

Nguồn www.chinhphu.vn