Một số nội dung chủ yếu của phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2011

Cổng TTĐT Chính phủ giới thiệu toàn văn “Thông cáo báo chí về một số nội dung chủ yếu của phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2011” của Văn phòng Chính phủ.

Trong hai ngày 25 – 26/9, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chính phủ đã họp phiên thường kỳ tháng 9 năm 2011.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan thay mặt Chủ tịch nước, lãnh đạo UB TW MTTQ VN, Tổng Liên đoàn Lao động VN, Hội Nông dân VN, Hội Liên hiệp Phụ nữ VN, Trung ương Đoàn TNCS HCM, Ban Tuyên giáo TW, Văn phòng Trung ương Đảng, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng BCĐ TW về phòng, chống tham nhũng, UBND TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh... đã tham dự phiên họp theo lời mời của Chính phủ.

Tại phiên họp, Chính phủ nghe báo cáo, thảo luận và quyết nghị về các nội dung: Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2011; tình hình thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ, Nghị quyết phiên họp Chính phủ tháng 8; công tác cải cách hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng tháng 9, tình hình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam; tình hình, nguyên nhân lạm phát và các giải pháp ứng phó; thực trạng tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2011-2015; dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.

I. Về tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2011

Chính phủ thống nhất đánh giá: Nhìn chung, 9 tháng đầu năm 2011, nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đạt được những kết quả tích cực bước đầu.

-Lạm phát đang giảm dần. CPI tháng 9/2011 tăng 0,82%, là mức tăng thấp nhất kể từ đầu năm và là tháng thứ hai liên tiếp đạt dưới 1% (mức tăng CPI tháng­­ 01-9/2011: 1,74%; 2,09%; 2,17%; 3,32%; 2,21%; 1,09%; 1,17%; 0,93% và 0,82%).

-Thu ngân sách 9 tháng so với dự toán năm bằng 78,5%, chi bằng 70,5%, ước cả năm bội chi có thể (4,9%) giảm so với kế hoạch (5,3%).

-Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước và so với kế hoạch đề ra, đạt 35,4%. Tỷ lệ nhập siêu 9 tháng gần 9,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu Nghị quyết số 11/NQ-CP đã đề ra (không quá 16%).

- Thặng dư cán cân thanh toán ngoại tệ đã dương, dự trữ ngoại tệ tăng; lãi suất giảm, hiện nay lãi suất huy động tiết kiệm ở mức 14% - 15%, lãi suất cho vay đã giảm và có xu hướng tiếp tục giảm.

-Về đầu tư phát triển, nhằm góp phần giảm tổng cầu, kiềm chế lạm phát, việc cắt giảm, điều chuyển vốn đầu tư đã được quan tâm chỉ đạo, tập trung cho các dự án cấp bách, cần đẩy nhanh tiến độ, sắp hoàn thành. Nhờ đó, số dự án hoàn thành trong năm 2011 tăng thêm trên 1.050 dự án; tổng đầu tư toàn xã hội giảm còn dưới 35% GDP cho cả năm 2011.

-Các chỉ số nợ quốc gia đều trong giới hạn an toàn.

-Tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 5,43%; quý II tăng 5,67%, quý III tăng 6,11%), 9 tháng đạt 5,76%; trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,39%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,62%; dịch vụ tăng 6,24%. Các lĩnh vực dịch vụ như bán lẻ hàng hoá, du lịch, vận tải, viễn thông đều có mức tăng trưởng khá. Tăng trưởng GDP tuy thấp hơn cùng kỳ năm 2010 (6,52%) nhưng trong khó khăn, tập trung ưu tiên cho ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát thì đây là một cố gắng lớn.

Các mặt công tác văn hóa - xã hội, các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói giảm nghèo vẫn được triển khai quyết liệt trong điều kiện lạm phát, giá cả tăng cao. Các lĩnh vực phòng chống tham nhũng, cải cách hành chính, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được quan tâm chỉ đạo và có nhiều kết quả tích cực.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế thế giới đang đứng trước những khó khăn và thách thức rất lớn, tác động tiêu cực đến nước ta. Ở trong nước, kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Lạm phát vẫn còn ở mức cao, sản xuất kinh doanh còn không ít ách tắc, hàng tồn kho lớn. Đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Tình hình thiên tai, dịch bệnh tiềm ẩn gây nhiều thiệt hại...

Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương trong những tháng cuối năm cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, có hiệu quả Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị, các Nghị quyết số 02/NQ-CP và số 11/NQ-CP của Chính phủ.

Phấn đấu giữ mục tiêu lạm phát ở mức 18%, phấn đấu tăng trưởng GDP 6%.

Tiếp tục điều hành chính sách tài chính - tiền tệ chặt chẽ, giữ mức dư nợ tín dụng và tổng phương tiện thanh toán không nhất thiết sử dụng hết giới hạn của Nghị quyết số 11/NQ-CP là 20% và 15% - 16%; tăng dự trữ ngoại hối; tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng.

Tiếp tục giám sát chặt chẽ các hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại, nhất là về nợ xấu; kiểm soát cho vay bất động sản, bảo đảm tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng.

Chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất, cung ứng đầy đủ, kịp thời các mặt hàng lương thực, thực phẩm, các mặt hàng thiết yếu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân, không để tình trạng thiếu hàng hóa cục bộ, kể cả những vùng bị thiên tai, dịch bệnh. Cân đối đủ nguồn hàng cho tiêu dùng dân cư dịp cuối năm, nhất là dịp lễ, tết.

Tập trung nguồn lực cho phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục nhanh sản xuất và ổn định đời sống cho nhân dân. Tăng cường công tác quản lý đê điều, hồ đập thủy điện trong mùa mưa bão; quản lý rừng tăng cường phòng chống cháy rừng và phá rừng làm nương rẫy.

Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia hướng đến vùng nghèo, địa bàn huyện, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, người nghèo, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khó khăn trong xã hội. Quan tâm, có biện pháp giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội nảy sinh đối với người lao động trong các doanh nghiệp, phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức đoàn thể, đặc biệt là công đoàn, trong công tác bảo vệ quyền lợi của người lao động.

Tổ chức triển khai quyết liệt các nghị quyết và chỉ đạo của Chính phủ về duy trì đảm bảo an sinh, trật tự an toàn xã hội, quốc phòng an ninh, an toàn giao thông.

Tiếp tục chỉ đạo làm tốt công tác cải cách hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để tạo sự đồng thuận và góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

II. Về vấn đề lạm phát cao và giải pháp ứng phó

Chính phủ thống nhất nhận định: Lạm phát ở nước ta trong thời gian qua so với nhiều nước luôn ở mức cao và kéo dài do nhiều nguyên nhân, bao gồm cầu kéo, chi phí đẩy và một số yếu tố đặc thù tác động làm gia tăng các yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Nhưng nguyên nhân chủ yếu chính là cầu kéo (tổng mức đầu tư vượt quá tiết kiệm, tín dụng, tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh...) Trong những nguyên nhân trên có tác động của nhiều yếu tố khách quan yếu tố tâm lý về lạm phát kỳ vọng nhưng yếu tố chủ quan vẫn là chủ yếu.

Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo nhiều giải pháp khắc phục trong thời gian qua, đặc biệt là mang lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên, tình hình vẫn có nhiều diễn biến phức tạp. Để giải quyết cơ bản vấn đề lạm phát trong thời gian tới, cần phải tiếp tục kết hợp cả những giải pháp mang tính lâu dài và những giải pháp trước mắt:

Những giải pháp trước mắt bao gồm việc phải kiên định chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá chặt chẽ; điều phối lượng tiền tín dụng hợp lý trong cả năm, thực hiện nghiêm túc việc cắt giảm đầu tư công, giảm chi thường xuyên và giảm bội chi ngân sách; đồng thời, củng cố lòng tin của công chúng vào VND bằng việc minh bạch chính sách, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tiếp tục lộ trình xóa bỏ tình trạng vàng hóa, đôla hóa; kiểm soát thị trường giá cả, lựa chọn lộ trình thực hiện giá thị trường...

Nhóm giải pháp lâu dài bao gồm các giải pháp kiểm soát tổng cầu và kiểm soát cung ứng tiền cho nền kinh tế; thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế mà trọng tâm tập trung vào 3 khâu là tái cấu trúc đầu tư, tái cấu trúc doanh nghiệp và tái cấu trúc hệ thống tài chính tiền tệ; khuyến khích áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao để nâng cao hiệu quả nền kinh tế; tăng cường công tác phân tích, dự báo; thông tin tuyên truyền...

Về mục tiêu năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015 Chính phủ xác định, những năm đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung cho nhiệm vụ ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng hợp lý, trong đó kiềm chế lạm phát là ưu tiên số 1, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn. Điều quan trọng là trong giai đoạn 5 năm này phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô để tạo ra được những tiền đề vững chắc cho tăng trưởng nhanh hơn và bền vững hơn trong giai đoạn 5 năm 2016 - 2020, phấn đấu hoàn thành Chiến lược 10 năm 2011-2020.

III. Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao năng lực và hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước

Theo báo cáo của Bộ Tài chính, giai đoạn 2006-2010, đa số các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phát triển về quy mô, hiệu quả từng bước được nâng lên, đóng góp nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước; bảo đảm sản xuất, cung ứng nhiều sản phẩm hàng hóa và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực của nền kinh tế; đóng góp tích cực trong việc bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng và việc làm cho người lao động.

Tuy nhiên, hoạt động của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước cũng bộc lộ nhiều bất cập; huy động quá nhiều vốn để thực hiện đầu tư, đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh trong khi năng lực quản lý, trình độ quản trị doanh nghiệp và khả năng tài chính có hạn; đầu tư ra ngoài ngành nghề chính còn nhiều.

Nhiều tập đoàn, tổng công ty chậm đổi mới thiết bị, công nghệ, chưa thực sự năng động trong cạnh tranh, một số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài. Tại nhiều tập đoàn, tổng công ty, việc tuân thủ các quy định của nhà nước trong quản lý, sử dụng vốn chưa nghiêm.

Trách nhiệm các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu còn nhiều điểm chưa thật sự hợp lý.

Công tác quản lý nhà nước đối với các tập đoàn, tổng công ty còn nhiều hạn chế, hành lang pháp lý cho việc quản lý hoạt động của DNNN chưa hoàn thiện; chức năng đại diện chủ sở hữu đối với DNNN chưa được thực hiện tốt công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty hiệu quả còn thấp.

Yêu cầu sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo thực hiện từ nhiều năm nay, càng phải được thực hiện triệt để trong thời gian tới, trong đó tập trung vào đẩy mạnh cổ phần hóa, cơ cấu tổ chức lại doanh nghiệp gắn liền với việc đổi mới, nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính. Việc tái cơ cấu DNNN cũng chính là một khâu quan trọng trong tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng tạo tiền đề cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững trong những năm sau.

Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành trên cơ sở nghiên cứu, phân tích kỹ thực trạng hoạt động của DNNN, xây dựng đề án sắp xếp, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước tới từng tập đoàn, tổng công ty; thiết kế cơ chế quản lý DNNN quy định rõ trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát hoạt động cũng như công tác quản lý cán bộ của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, báo cáo Chính phủ. Các tập đoàn, tổng công ty tập trung đầu tư vào lĩnh vực chính đồng thời thực hiện việc thoái vốn đã đầu tư vào ngoài ngành nghề chính, nhất là vào ngân hàng, công ty chứng khoán, bảo hiểm.

IV. Về chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

Đảng và Nhà nước ta luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Những thành tựu về giáo dục, đào tạo trong những năm qua đã đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 – 2010, giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục phát triển; chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo có tiến bộ; công bằng xã hội trong tiếp cận giáo dục đã được cải thiện; công tác quản lý giáo dục có bước chuyển tích cực theo hướng chuẩn hóa... song cũng còn không ít yếu kém, bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Việc xây dựng Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 là cấp thiết, nhằm khắc phục những tồn tại hiện nay, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa, đa dạng hóa, đưa nền giáo dục nước ta tiến kịp các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới; góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020.

Dự thảo Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 xác định rõ mục tiêu chiến lược của giáo dục Việt Nam là tập trung nâng cao chất lượng toàn diện, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế; nhấn mạnh đến việc “dạy người”, đồng thời với “dạy chữ” và dạy nghề…; xác định nhiều giải pháp quan trọng về đổi mới quản lý giáo dục; phát triển nhân lực ngành giáo dục; tiếp tục đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học và đánh giá chất lượng giáo dục; nhà nước và xã hội tăng cường đầu tư cho giáo dục, gắn giáo dục - đào tạo với nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ; đẩy mạnh hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo...

Chiến lược cần thể hiện cụ thể hơn các mục tiêu về giáo dục đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng XI; đồng thời bám sát những vấn đề hiện còn nhiều bất cập được xã hội đặc biệt quan tâm thậm chí bức xúc như chất lượng đào tạo nhất là công tác giáo dục phổ thông, dạy nghề, đào tạo đại học... phải đưa ra được hướng giải quyết có sự đồng thuận của xã hội.

Chính phủ giao Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, tiếp tục bổ sung hoàn thiện bản Chiến lược, sau đó gửi lấy ý kiến thành viên Chính phủ và Hội đồng Giáo dục Quốc gia họp góp ý kiến trước khi trình Thủ tướng Chính phủ ký, ban hành.

Về đề án quản lý hoạt động thăm dò khai thác khoáng sản: Chính phủ giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan hoàn thiện báo cáo trình Chính phủ xem xét tại phiên họp khác.

Thời gian từ nay đến cuối năm 2011 không còn nhiều, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước phải tiếp tục nỗ lực hết sức, quyết liệt, kiên định thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng hợp lý.

Các Bộ, ngành, cơ quan, địa phương tăng cường chủ động phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, cho nhân dân và doanh nghiệp, bảo đảm kịp thời, đúng định hướng. Các cơ quan thông tin đại chúng thông tin chính xác, khách quan, vì lợi ích của đất nước, tạo sự đồng thuận cao, chung sức chung lòng vượt qua thách thức, khó khăn, thực hiện tốt nhất những mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra.

Nguồn www.chinhphu.vn