Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: Đình Nam
Liên quan đến việc bổ sung quy định liên quan đến vấn đề xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự tại các Điều 248, 249, 250, 251 và 252 của BLHS năm 2015, trình bày Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho biết, BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 đều không có quy định về vấn đề xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự. Thực tế trong thời gian qua giữa các cơ quan tố tụng có cách hiểu rất khác nhau, không thống nhất về vấn đề xác định các chất ma túy được quy định trong BLHS và các ngành đề nghị cần quy định rõ vấn đề này trong BLHS. Vì vậy, việc bổ sung vào BLHS nội dung quy định về xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy là cần thiết nhằm khắc phục tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng có cách hiểu khác nhau, không thống nhất về vấn đề xác định hàm lượng chất ma túy trong quá trình xử lý các vụ án về ma túy, góp phần bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong thực tiễn.
Dự thảo Luật được thể hiện theo hướng quy định rõ cần phải xác định hàm lượng chất ma túy thu giữ được để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự nếu thuộc một trong 05 trường hợp sau: (1) phạm tội về ma túy quy định tại khoản 4 các điều từ Điều 248 đến Điều 252 của BLHS năm 2015 (có mức phạt đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình); (2) chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch; (3) chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng; (4) xái thuốc phiện; (5) thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần. Việc bổ sung quy định này là sự ghi nhận trong BLHS thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy hiện nay, khắc phục cách hiểu khác nhau, không thống nhất được về vấn đề xác định hàm lượng chất ma túy giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, phạm vi quy định nội dung này đến đâu là vấn đề cần được cân nhắc hết sức thận trọng trên tinh thần bảo đảm sự hài hòa giữa yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, đồng thời, phải tính đến khả năng thực tế thực hiện giám định hàm lượng chất ma túy ở nước ta nhằm bảo đảm tính khả thi của quy định.
Tờ trình của Chính phủ lý giải, trong khi chúng ta chưa có đủ khả năng thực tế để thực hiện giám định hàm lượng chất ma túy trong tất cả các vụ án về ma túy thì ít nhất cũng cần ghi nhận rõ ràng trong BLHS những trường hợp cần phải xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích chất ma túy làm cơ sở cho việc xử lý hình sự mà thực tiễn hiện nay đang làm. Mặc dù phương án này chưa bảo đảm được sự công bằng tuyệt đối trong mọi trường hợp phạm tội về ma túy nhưng ở một chừng mực nhất định nó thể hiện mức độ hài hòa tương đối giữa yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trong một số trường hợp phạm tội về ma túy, nhất là, trong trường hợp người phạm tội có khả năng bị áp dụng mức hình phạt cao (20 năm tù hoặc tù chung thân, thậm chí là tử hình), cũng như phù hợp với khả năng thực tế thực hiện giám định hàm lượng các chất ma túy ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Các đại biểu Quốc hội tại phiên họp.
Về vấn đề này, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho hay, trong quá trình thẩm tra dự án Luật, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội có ba loại ý kiến khác nhau. Theo đó có ý kiến không tán thành với quy định của dự thảo Luật về việc cần xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy đối với tội phạm về ma túy thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng; có ý kiến tán thành quy định ngay trong Luật việc chỉ xác định loại ma túy, mà không xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma tuý và cũng có ý kiến tán thành với quy định của Chính phủ.
Các ý kiến không tán thành quy định cần xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma túy cho rằng trong cùng một điều luật, ở các khoản có khung hình phạt đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình (khoản 4 của các điều từ 248 đến điều 252) thì phải giám định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích, trong khi đó, khoản 1, 2 và 3 lại không quy định giám định hàm lượng là bất bình đẳng trong chính sách hình sự. Hơn nữa, quy định này sẽ dẫn đến việc buộc phải giám định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích mới biết một người phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng để xác định thẩm quyền tố tụng, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự… là không hợp lý, gây khó khăn trong công tác điều tra, truy tố, xét xử và không bảo đảm tính kịp thời trong đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Bên cạnh đó, thực tiễn xử lý thời gian qua cho thấy, nhiều vụ án ma túy là án truy xét, không thu giữ được ma túy nên không giám định được hàm lượng để quy ra khối lượng. Một số vụ xử lý trách nhiệm hình sự căn cứ vào ý thức chủ quan của người phạm tội và các chứng cứ khác, mà không phụ thuộc vào hàm lượng chất ma túy.
Thực tiễn giải quyết các vụ án về ma túy mấy chục năm qua chỉ căn cứ vào khối lượng ma túy thu giữ được hoặc chứng minh được mà không căn cứ vào hàm lượng chất ma túy; chỉ khoảng 02 năm gần đây, các cơ quan tiến hành tố tụng mới có quan điểm khác nhau và không thể thống nhất được có hay không giám định hàm lượng chất ma tuý để xử lý hình sự, dẫn đến tồn đọng án kéo dài, nhiều vụ án thậm chí vi phạm về thời hạn tố tụng, nhất là thời hạn tạm giam. Vì vậy cũng có ý kiến tán thành quy định ngay trong Luật việc chỉ xác định loại ma túy, mà không xác định hàm lượng để quy ra khối lượng hoặc thể tích các chất ma tuý.
Vấn đề này cũng với các nội dung khác Chính phủ xin ý kiến và các nội dung đại biểu Quốc hội quan tâm sẽ được Quốc hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp tổ ngày 21-10 và hội trường ngày 26-10.
Nguồn: quochoi.vn