Phòng chống bệnh bướu cổ

(NTO) Bệnh bướu cổ thường xuất hiện tập trung trong những vùng, miền mà ở đó có sự thiếu hụt lượng i-ốt cung cấp cho cơ thể hàng ngày kéo dài, nên còn gọi là bệnh bướu cổ địa phương. Theo Tổ chức Y tế thế giới, bệnh bướu cổ chia làm 4 độ:

- Độ IA: Mỗi thùy giáp sờ nắn thấy to hơn đốt 1 ngón tay cái của chính bệnh nhân. Nhìn không thấy bướu cổ khi bệnh nhân ngửa cổ ra sau.

- Độ IB: Nhìn thấy bướu cổ khi bệnh nhân ngửa cổ ra sau. Sờ nắn được dễ dàng.

- Độ II: Bướu cổ nhìn thấy rõ khi bệnh nhân ở gần và tư thế cổ bình thường.

- Độ III: Bướu giáp rất lớn, ở xa nhìn thấy rõ. Bướu làm biến dạng cổ.

- Độ IV: Bướu rất to.

Bệnh bướu cổ làm ảnh hưởng lớn đến vẻ đẹp và cũng có thể gây ra những biến chứng:

- Biến chứng cơ học: Chèn ép các tổ chức chung quanh gây tuần hoàn bàng hệ vùng cổ, khó thở, nói khan hoặc nói khó và chèn ép thực quản gây khó nuốt.

- Nhiễm khuẩn, chảy máu trong tuyến giáp gây túi máu trong tuyến giáp hoặc bướu giáp nhân. Có thể xuất hiện cường giáp trên bướu giáp lan tỏa có nhiều nhân hoặc suy giáp trên những bướu cổ quá lớn. Biến chứng ung thư tuyến giáp rất hiếm gặp.

Bệnh bướu cổ khi còn ở giai đoạn sớm nếu được khám và điều trị đúng sẽ có khả năng bướu nhỏ lại, vì vậy nên đi khám bệnh sớm. Bệnh bướu cổ khi đến giai đoạn muộn, dù điều trị tích cực bướu cũng khó nhỏ lại như ban đầu. Ngoài ra trong những trường hợp bướu chìm không thấy được nhưng gây chèn ép biểu hiện khó thở hoặc khàn tiếng kéo dài thì cũng nên siêu âm tuyến giáp để phát hiện sớm. Khi nghi ngờ mắc bệnh bướu cổ nên đến khoa Nội tiết Trung tâm Y tế Dự phòng để được khám và tư vấn, điều trị sớm.

Để phòng bệnh bướu cổ chủ yếu là bổ sung i-ốt trong khẩu phần ăn hàng ngày, như dùng muối i-ốt thay cho muối thường. Những biện pháp bổ sung i-ốt trong nước mắm, dầu, bánh mì… cũng rất tốt nhưng ít phổ biến ở tỉnh ta. Cần tiếp tục truyền thông trong cộng đồng những ích lợi của việc dùng muối i-ốt và cách dùng, như: muối i-ốt an toàn cho tất cả mọi người, không làm thay đổi mùi vị thức ăn, nêm vào thức ăn hoặc dùng trong muối dưa, cà, trộn gỏi. Cho muối vào lọ khô có nắp đậy hoặc buộc chặt miệng túi sau khi dùng xong, tránh để muối i-ốt nơi quá nóng, nhiều ánh sáng. Ăn hải sản tùy khả năng: cá biển, sò ốc, mực; rong biển (rong sụn, rau câu, tảo…), các loại rau xanh, rau xà lách xoong, trứng, phủ tạng động vật, sữa hoặc dùng thêm viên tảo có bán tại các nhà thuốc. Nhu cầu hàng ngày khoảng 200 microgam/ngày.