Trả lời: Theo qui định tại điểm d, khoản 2, Mục II, Thông tư số 02/2011/TT-BNV ngày 24/01/2011 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng thì:
“Thực hiện xét thành tích về khen thưởng đối với những người có cống hiến lâu dài nêu trên khi hoàn thành tốt nhiệm vụ, đã đến tuổi nghỉ chế độ hoặc đã nghỉ chế độ mà chưa được khen thưởng quá trình cống hiến (kể cả các trường hợp đã hy sinh, từ trần), cụ thể là: triển khai thực hiện cho các trường hợp đã từ trần, đã nghỉ hưu, có quyết định thông báo nghỉ hưu; các đối tượng sắp đến tuổi nghỉ hưu nhưng số năm công tác còn lại không đủ để được đề nghị khen thưởng ở mức cao hơn thì đề nghị xét khen thưởng trước thời điểm nghỉ hưu (thời điểm đề nghị khen thưởng không quá 2 năm tính đến thời điểm nghỉ hưu).”
Như vậy, việc xét khen thưởng Huân chương các loại đối với các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý có quá trình cống hiến lâu dài chỉ xét khi các đối tượng đó đến tuổi nghỉ hưu hoặc sắp nghỉ hưu. Thời điểm đề nghị tùy thuộc vào thời gian giữ chức vụ để xét khen mức cao nhất cho đối tượng.
Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A, giữ chức vụ Giám đốc sở giai đoạn sau 30/4/1975 đến trước thời điểm nghỉ hưu tháng 01/2015 có thời gian giữ chức vụ Giám đốc sở là 15 năm, đủ tiêu chuẩn đề nghị Huân chương Lao động hạng Nhì thì thời điểm xét đề nghị là lúc ông Nguyễn Văn A nhận quyết định nghỉ hưu.
Ông Nguyễn Văn B, giữ chức vụ Giám đốc sở giai đoạn sau 30/4/1975 đến trước thời điểm nghỉ hưu tháng 01/2015 có thời gian giữ chức vụ Giám đốc sở là 17 năm, đủ tiêu chuẩn đề nghị Huân chương Lao động hạng Nhì thì thời điểm xét đề nghị đối với ông Nguyễn Văn B là lúc ông có thời gian giữ chức vụ Giám đốc sở đủ 15 năm (tháng 01/2013 - xét trước lúc nghỉ hưu 2 năm) đạt tiêu chuẩn Huân chương Lao động hạng Nhì.
Lê Trường Ninh