Lá 3 - 6 hình mũi mác hẹp, xếp nếp và có gân như lá cau. Thân rễ hình trụ dài, mọc thẳng, dạng củ to bằng ngón tay. Cụm hoa 3 - 5 hoa nhỏ màu vàng. Quả nang thuôn, dài 1,2 - 1,5cm, chứa 1 - 4 hạt. Mùa hoa quả: tháng 5 - 7. Sâm cau mọc hoang trên các đồi cỏ ven rừng ở một số tỉnh miền Bắc nước ta và ở vùng đồi núi cao ở Lâm Đồng.
Bộ phận dùng để làm thuốc là thân rễ, có tên dược liệu là tiên mao. Người ta thu hái quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu. Đào lấy củ về rửa sạch, cạo bỏ vỏ ngoài, ngâm nước vo gạo một đêm rồi phơi hoặc sấy khô.
Sâm cau.
Theo Đông y, sâm cau có vị cay, tính ấm, vào kinh thận, tác dụng ôn bổ thận khí, tráng dương, ôn trung, táo thấp, tán ứ, trừ hàn thấp, mạnh gân cốt.
Thường dùng chữa cho nam giới thận dương hư suy, tinh lạnh, liệt dương, tay chân yếu mỏi; phụ nữ tử cung lạnh, khí hư bạch đới, tiểu đục; người cao tuổi thường bị tiểu đêm, tiểu són, lạnh bụng, lưng gối lạnh đau, phong thấp, vận động khó khăn, suy nhược thần kinh.
Một số bài thuốc có dùng sâm cau
Chữa tiêu chảy: Rễ sâm cau phơi khô, thái nhỏ, sao vàng, lấy 12g sắc với 200ml nước còn 50ml, uống 1 lần trong ngày. Uống 3-5 ngày cho hết triệu chứng.
Sâm bố chính.
Chữa tê thấp, đau nhức toàn thân:
Rễ sâm cau, hà thủ ô, hy thiêm mỗi thứ 20g, thái nhỏ, ngâm với 500ml rượu trắng trong 7-10 ngày, ngâm càng lâu càng tốt, ngày uống 2 lần, mỗi lần 30ml. Uống liên tục từ 7 - 10 ngày.
Chữa liệt dương do rối loạn thần kinh chức năng: Sâm cau 10g, sâm bố chính, trâu cổ, câu kỷ tử, ngưu tất, tục đoạn, thạch hộc, hoài sơn, cáp giới, mỗi thứ 12g; cam thảo nam, ngũ gia bì mỗi thứ 8g. Tất cả thái nhỏ phơi khô, sắc với 750ml nước, còn 250ml chia 2 lần uống trong ngày. Uống liên tục 7 ngày.
Lưu ý: Những người bị âm hư hỏa vượng không nên dùng
Nguồn Vietbao.vn