Mô tả cây
Cây thanh táo hay còn gọi cây tần cửu là một cây nhỏ cao chừng 1,5m, cành có màu tím sẫm hay xanh lục, nhẵn, giữa chỗ lá mọc đối có một dòng lông. Lá mọc đối, mang cuống ngắn, phiến lá hình mác thuôn, dài 4-14cm, rộng 1-2cm, mép nguyên. Lá thường bị loài nấm puccinia thwaitesii ăn hại. Mặt lá nhẵn có gân xanh hay màu tím tuỳ theo cây. Hoa màu trắng hay hơi điểm hồng, có những đốm tía, mọc thành bông ở đầu cành hay kẽ lá phía ngọn. Quả nang dài 12mm, trong chứa 4 hạt. Mùa hoa quả vào mùa hạ.
Người ta dùng vỏ thân hay vỏ rễ, rễ, lá tươi hoặc khô. Rễ thường được dùng với tên tần giao hay tần cửu, tần cừu.
Thu hoạch quanh năm, tốt nhất vào tháng 7-8.
Công dụng và liều dùng
Nhân dân dùng lá hay cành khô cây thanh táo giã đắp vào các vết sưng hay sắc nước, nước còn nóng đắp vào chỗ sưng đau, đau thấp, đau xương, có khi ngâm rượu chữa tê thấp.
Theo đông y rễ cây có vị đắng, cay và bình, vào 4 kinh: vị, đại tràng, can, đảm.
Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc cao hoặc ngâm rượu.
Đơn thuốc có thanh táo
Rễ thanh táo, miếp giáp, địa cốt bì, sài bồ, mỗi vị 10g, đương quy, tri mẫu, mỗi vị 5g, thanh cao, ô mai, mỗi vị 4g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày. Chữa ho, sốt, mồ hôi trộm.
Đức Doãn (Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)