Nhiều bà con Ra glai nói: “Cái đàn đá, cái mã la, cái kèn bầu nó nói tiếng khác rồi, nó không còn nói tiếng mình nữa mà, mình nghe không thích cái tai nữa đâu!” Đáng buồn hơn là số lượng ít ỏi các nghệ nhân Ra glai - những người biết chế tác và sử dụng các loại nhạc cụ cổ truyền của dân tộc mình - chính họ cũng là những di sản văn hóa đặc biệt quan trọng, đã lần lượt qua đời do tuổi già hay bệnh tật. Việc phục chế các hiện vật văn hóa vật thể thì hầu như chưa có gì đáng kể. Công việc càng chậm thì sự mất mát càng lớn. Cùng với việc bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa truyền thống Ra glai, việc xây dựng và thành lập một nhà bảo tàng về lịch sử - văn hóa của dân tộc Ra glai , trong đó có các hiện vật về âm nhạc Ra glai, là một nhu cầu chính đáng và cấp thiết.
1. ĐÀN ĐÁ (PATƠU TILẼNG)
Đàn đá của dân tộc Ra glai (huyện Khánh Sơn-Khánh Hòa). Ảnh: Vietvision Travel
Việc phát hiện được bộ đàn đá do gia đình ông Bo Bo Ren lưu giữ có niên đại cách ngày nay trên 3000 năm tại Dốc Gạo, Khánh Sơn vào tháng 2 - 1979 bước đầu khẳng định về sự tồn tại một loại hình nhạc cụ cổ bằng đá của những cư dân đã từng sinh sống từ xa xưa trên địa bàn này. Thuật ngữ đàn đá (KAPOT PATƠU) thật ra chỉ mới xuất hiện gần đây, sau các cuộc sưu tầm đàn đá như trên. Cuộc sống trước đây của người Ra glai chủ yếu dựa vào hoạt động nông nghiệp phát nương, làm rẫy. Trong khi phát nương làm rẫy, họ đã có sáng tạo độc đáo là tìm những phiến đá, những thanh đá kêu (PATƠU TILẼNG) nằm rải rác trên sườn núi, dưới lòng suối, rồi kết hợp với vật liệu tre nứa, dây mây làm giàn treo các thanh đá nơi các suối nước có dòng nước đổ từ cao xuống trực tiếp vào thanh đàn đá hoặc gián tiếp qua một dụng cụ gõ để tạo ra âm thanh vừa để bớt vắng vẻ, vừa để vui tai, đồng thời có tác dụng xua đuổi được các loài thú dữ, bảo vệ mùa màng.
Thân các thanh đá kêu đa số có hình dẹp và một ít có hình khối tròn. Mỗi bộ đàn đá có từ 7 - 12 thanh. Kích thước từng bộ đàn đá lớn nhỏ khác nhau, thanh mẹ lớn nhất (có thanh dài trên 1m) và nhỏ dần (thanh nhỏ nhất có chiều dài khoảng 20 cm). Mỗi thanh đá kêu hầu như đều hội đủ thuộc tính của nhạc âm, trong một bộ đàn đá mỗi thanh đá đều có tần số âm thanh khác nhau. Điều đó cho thấy người Ra glai khi dựng dàn đá kêu đã có tính toán chọn các thanh đá có âm thanh cao thấp nhằm mục đích làm cho tiếng vang của dàn đá kêu không đơn điệu mà luôn thay đổi khi cao khi thấp, khiến cho muông thú thêm phần sợ hãi, song lại làm cho con người thấy vui tai, thích thú.
Việc dựng các dàn đá kêu giữ rẫy đã từng phổ biến một thời. Cho đến cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX vẫn có nhiều gia đình người Ra glai còn lưu giữ những thanh đá kêu giữ rẫy như là đồ gia bảo. Nhiều gia đình đã lưu giữ những thanh đá kêu trải qua 2 hoặc 3 đời (ước khoảng 100 - 150 năm), có gia đình như cụ Kator Aohoh ở Bác Ái lưu giữ được 5 đời (ước khoảng 250 năm). Chắc rằng vào một thời gian xa xưa nào đó, việc tìm kiếm đá kêu giữ rẫy trở thành nhu cầu thiết yếu đối với cuộc sống, thậm chí mỗi khi tìm được đá kêu người Ra glai đều nghĩ là do Yang (ông Trời) ban cho. Họ tôn vinh đá kêu giữ rẫy như là “Mã la Ông Bà”, như là một loại “nhạc cụ linh thiêng”. Những thanh đá kêu linh thiêng ấy, nhờ phân tích thạch học, mà ta biết chúng được làm bằng loại đá nham thạch phun trào ri-ô-lít (rhyolite), loại đá này có nhiều tại khu Cà Giàng Cao, Dốc Gạo thuộc thị trấn Tô Hạp, huyện Khánh Sơn (Khánh Hòa), vùng rừng núi huyện Bác Ái (Ninh Thuận) và các vùng phụ cận Bảo Lộc, Di Linh, Đà Lạt (Lâm Đồng).
2. MÃ LA (CHHAR)
Nhạc cụ Mã La. Ảnh: Viettems.com
Mã la là loại nhạc cụ làm bằng đồng đỏ hoặc đồng trắng (Chhar saralõng còq), hình tròn, có vành chung quanh; ở giữa là mặt mã la bằng phẳng, không có núm. Trên vành có 2 lỗ để buộc dây làm quai đeo vào vai khi biểu diễn. Để tạo âm, người ta dùng phần thịt của bàn tay để đánh. Mã la vừa có thể dùng diễn tấu đôc lập vừa có thể hòa tấu với trống da nai, khèn bầu hoặc đệm cho phần hát.
Một bộ mã la có từ 5 chiếc, có bộ có đến 10, 12 hoặc 14 chiếc, mỗi chiếc có âm thanh khác nhau. Bộ mã la đầy đủ phải có ít nhất 5 chiếc, mỗi chiếc đều có tên gọi riêng và được xếp theo trình tự như sau:
- Chiếc thứ I là Chhar anar (mã la mẹ)
- Chiếc thứ II là Chhar atoh (mã la cha)
- Chiếc thứ III là Chhar balõh (mã la con gái lớn)
- Chiếc thứ IV là Chhar yuop (mã la con gái thứ)
- Chiếc thứ V là Chhar pẽng (mã la con gái út)
Dàn mã la của đồng bào Raglai ở xã Thành Sơn, huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa - Ảnh: Ngọc Anh
Theo sự nghiên cứu của nhạc sĩ Hình Phước Long (Sở VH-TT Khánh Hòa), cấu trúc thang âm của dàn mã la Raglai như sau:
1. Chhar anar : Đô#
2. Chhar atoh : Rê#
3. Chhar balõh: Mi#
4. Chhar yuop: Fa#
5. Chhar pẽng: Sol#
Cấu trúc liền bậc thang sẽ thấy là:
Đô# - Rê# - Mi# - Fa# - Sol#
Nhìn vào cấu trúc thang âm trên, âm chủ của mã la lại là nốt đô thăng (diè), trông có vẻ bất cập khi định vị là âm chủ của cả bộ mã la. Nhưng trong nghệ thuật, nhất là nghệ thuật dân gian, thiển nghĩ đôi khi cái nghịch lại trở thành cái thuận. Cái âm chủ mang nốt đô thăng chỉ cách nửa cung so với âm liền bậc trong cấu trúc thang âm ở bộ mã la của người Ra glai chắc phải có lý do để tồn tại.
Gia đình người Ra glai tồn tại theo chế độ mẫu hệ, mọi quyền lực trong gia đình thuộc về người mẹ, người vợ và con gái. Con gái lớn lên cưới chồng, sinh con lấy theo họ mẹ. Quan niệm mẫu hệ đó tồn tại rất rõ nét trong cả cấu trúc âm nhạc nữa. Xem cấu trúc thang âm của bộ mã la ta thấy ngay âm chủ của nốt đô thăng biểu thị cho vai trò của người mẹ (vợ). Âm thứ II nốt Rê biểu thị cho vị trí của người cha (chồng), nó chỉ tồn tại bán cung so với âm chủ, trên thực tế của bộ mã la, nó chỉ là âm dẫn để hút về chủ âm là chính. Trong âm nhạc, những âm dẫn là những “hoa lá cành” tạo màu sắc cho âm nhạc chứ không giữ được vị trí độc lập. Phải chăng vị trí phụ thuộc của người đàn ông trong xã hội mẫu hệ cũng được xác định ngay trong dàn mã la của người Ra glai. Âm thứ III là âm Mi biểu thị cho con gái lớn, tồn tại đúng một cung so với âm Rê (cha), để bứt lên giữ vị trí kế thừa của âm chủ (mẹ). Âm thứ IV nốt pha thăng (hơi non) biểu thị cho con gái thứ. Âm thứ V nốt sol thăng biểu thị cho con gái út, đều là những âm định vị như những thành viên mang tính độc lập trong gia đình.
Hiện nay khó tìm một bộ mã la hoàn chỉnh do việc chia phần cho các con, hoặc phải bồi thường thay thế nhân mạng, bị phạt do vi phạm các tội theo quy định luật tục Ra glai (Adãt Panuãiq Ra glai). Mã la là một loại nhạc cụ quan trọng được sử dụng trong hầu hết các lễ hội, vui chơi, cho đến tang tế trong cộng đồng Ra glai. Dàn mã la được đồng bào dân tộc xem như một tài sản quý lưu truyền từ đời này sang đời khác, được đặt để, gìn giữ trang trọng tại nhà của già làng. Trong các lễ hội như lễ hội cầu mưa, lễ hội mừng lúa mới, lễ hội già làng… tiếng mã la nổi lên từng hồi trầm hùng như tín hiệu gọi thần linh sông núi phù hộ cho buôn làng, cho bà con được an cư lạc nghiệp… Những đêm trăng sinh hoạt cộng đồng bên ché rượu cần, mã la cũng được tấu lên rộn rã làm nền, giữ nhịp cho bài dân ca thêm nồng nàn, điệu múa thêm nhịp nhàng… Trong đời sống thường nhật hoặc trong giao tiếp, mã la cũng được đem ra tấu mừng đón khách và tiễn khách rất ân cần, trịnh trọng…
3. CHIÊNG NÚM (CHĨC/ CHĨNG)
Chiêng có cấu tạo và hình dạng giống như mã la nhưng có núm ở giữa. Hiện nay, số lượng chiêng trong cộng đồng người Raglai ở Khánh Hòa còn rất ít. Trong địa bàn 2 huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh chỉ còn thấy 1-2 chiếc ở một vài gia đình. Riêng ở các vùng cư trú của người Raglai ở huyện Ninh Sơn (tỉnh Ninh Thuận) còn khá nhiều bộ chiêng đang sử dụng cùng với mã la trong các lễ hội. Về mặt cấu trúc, chiêng cũng có chiêng mẹ, chiêng con. Chiêng mẹ có đường kính lớn trên dưới 1m, riêng chiêng ở huyện Khánh Sơn có đường kính 0,5 m. Nhiều người cho rằng người Raglai không có chiêng. Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu kho tàng trường ca và sử thi Ra glai, chúng tôi thường gặp các câu hát đại loại: “Yawa chĩc va dar, Yawa chhar va pu yưc” (tạm dịch: “Tiếng chiêng vang xa, tiếng mã la vang vọng”) trong các đoạn miêu tả cảnh đoàn quân Raglai trên đường đi đánh giặc. Vì thế chúng tôi nghĩ rằng người Raglai xưa có sử dụng chiêng, nhưng không thông dụng như mã la.
4. ĐÀN CÒ (CANHĨ )
Loại đàn có hai dây như đàn cò của người Việt, nhưng ở phần dưới dùng bằng sọ dừa khô, hoặc đoạn lồ ô rỗng miệng bịt bằng da thú. Đờn cò được dùng để kéo các điệu hát Raglai như Uãq canhĩ, Majiẽng, tah runghỡm. . .
5. CÁC LOẠI ĐÀN LÀM BẰNG ỐNG LỒ Ô, TRE, NỨA:
- COQ TLƠR : Loại đàn làm bằng ống lồ ô, nứa hoặc tre gai, có từ 5 - 8 dây đàn là dây kép được lẩy từ cật tre, phân bố theo hình tròn ống, chạy dọc theo chiều dài ống, 2 đầu ống không bịt kín. Khi diễn tấu coq tlơr, hai tay nghệ nhân vừa giữ và tì một đầu bầu đàn vào bụng vừa dùng các đầu ngón tay bật vào phiến liên kết hai dây đàn. Để có tiếng đàn vang hơn, ấm hơn, nghệ nhân thường vén áo tì thẳng một đầu bầu đàn vào da bụng. Loại đàn này được đánh theo bộ mã la nên được coi như bộ mã la thu nhỏ.
- COQ TUGÙQ : Làm bằng ống lồ ô hoặc ống tre kín hai đầu (gồm luôn cả hai mắc tre), đường kính 9-10 cm, chiều dài khoảng 60 cm (ống tre có chức năng như là hộp đàn). Trên ống tre người ta xẻ thông vào ruột một rãnh chạy dọc rộng chừng 1 cm. Hai bên rãnh, người ta lẩy từ cật của lóng tre lên 7 sợi dây đàn (cath talơi) là dây đơn, một bên 4 dây, một bên 3 dây. Dây đàn chuốt tròn, các dây không đều nhau, đường kính xấp xỉ 1cm. Kề mắc tre, người ta bện một vòng tròn bằng mây, vừa giữ cho dây đàn không bị tướt khỏi ống tre vừa làm đường vòng trang trí. Tại hai đầu mỗi dây đàn, người ta kê hai mẩu tre nhỏ làm “con ngựa” (gai pacdip) cho dây đàn nổi lên khỏi hộp đàn đồng thời còn có tác dụng lên dây đàn để mỗi dây trùng với âm thanh của một cái mã la. Bên hông hộp đàn người ta khoét một hoặc hai lỗ tròn nghiêng và tra vào đó một hoặc hai que tre nhỏ như chiếc đũa làm tay cầm (gai djàc) để giữ đàn khi diễn tấu. Khi diễn tấu nghệ nhân vừa giữ tay cầm, một đầu bầu đàn tì vào bụng hoặc tì xuống sàn nhà vừa dùng các đầu ngón tay bật vào dây đàn. Do hộp đàn làm bằng ống lồ ô hoặc ống tre to hơn nên âm thanh của đàn coq tuguq nghe trầm hơn âm thanh của coq tlơr một quãng âm.
- COQ CHHAR / COQ CHAPI : Làm bằng các ống lồ ô, nứa, tre, một bộ có từ 9 đến 12 ống dài ngắn, to nhỏ khác nhau, mỗi ống một thanh âm khác nhau, đàn được sử dụng bằng cách dộng đít ống xuống đất vang lên tiếng kêu.
- CHAPI : Loại đàn có thân bằng ống tre hay lồ ô, trên cung bán nguyệt căng từ 5 - 8 sợi dây mây.
6. ĐÀN AGUAT/ RUDÕ
Loại đàn làm bằng thanh đồng có mỏ hơi quặp.
7. ĐÀN RADIT / GAVUAT
Làm bằng thanh đồng nhỏ và rất mỏng, hai đầu có buộc nhợ, khi sử dụng để thanh đồng giữa 2 môi thổi hơi ra thì dùng hai tay kéo hai đầu thanh lá đồng phát ra âm thanh.
8. ĐÀN CHAPI VILUAI
Một bà mẹ ở thôn Ma Oai đang khảy đàn chapi ru con ngủ. Ảnh: cand.com
Một loại đàn giống như đàn bầu của người Việt, nhưng thân làm bằng đoạn tre hoặc lồ ô lớn vát một mặt như cái máng, dùng nửa trái bầu khô kín đáy có một thanh lồ ô vót mỏng xuyên qua hai bên thành nửa quả bầu, đầu lớn thanh tre gắn vào một đầu của thân đàn, một sợi dây thép mảnh được buộc vào giữa đoạn thanh tre xuyên qua quả bầu kéo căng xuống đầu còn lại của thân đàn. Cách đánh đàn bầu của người Raglai cũng giống như cách đánh đàn bầu của người Việt.
9. KÈN BẦU (SARAKEL)
Có 6 ống nứa lớn nhỏ, ngắn dài khác nhau, trên thanh ống có một lỗ nhỏ và một lưỡi gà ở đầu cắm vào quả bầu. Sử dụng bằng cách ngậm núm quả bầu thổi hơi vào đồng thời dùng 6 ngón tay đóng mở 6 lỗ trên thân ống nứa.
10. CÁC LOẠI TRỐNG (SAGƠR)
- TRỐNG (SAGƠR) : Như trống chầu của người Việt, thân bằng gỗ, mặt bịt bằng da nai. Người Raglai xưa thường dùng trống này để cấp báo nên gọi là Radãng sagơr.
- TRỐNG CON (ANẢQ SAGƠR / SAGƠR DƠQ) : Thân trống bằng đất nung, 2 mặt bịt da thú, thường là da trâu. Trống con được đánh theo nhịp điệu của chiêng, mã la và điệu kèn.
- TRỐNG NHỎ (SAGƠR BEN) : Thân trống bằng gỗ, ở giữa phình to hơn 2 đầu, 2 mặt trống bằng nhau có đường kính 30 - 50 cm được bịt bằng da trâu. Trống được đánh theo nhịp mã la và chiêng.
- MÕ (KHOQ): Làm bằng một đốt tre hoặc lồ ô kín hai đầu, dọc theo thân ống có xẻ một đường rãnh để thoát âm. Mõ của người Ra glai có nhiều loại: Dùng để đeo vào cổ trâu, bò. Khi bò, trâu bước đi dùi đập vào mõ phát tiếng kêu để dễ tìm trâu bò thả ăn trong rừng. Mõ dùng để giữ rẫy gọi là Khoq Apu là loại mõ to có tiếng kêu lớn để đuổi chim, thú. Mõ gió gọi là Chhia Angĩn được thiết kế rất đẹp, có chong chóng ở một đầu mõ và đầu kia là bánh lái đan bằng lạt lồ ô để chuyển chong chóng ngược với chiều gió, có 4 dùi gõ nhỏ gắn trên 4 đầu của hai thanh nứa nhõ thẳng góc nhau đặt giữa thanh nứa làm trụ cho chong chóng quay. Khi gió thổi chong chóng quay các dùi nhỏ gõ trên thân mõ thành chuỗi âm thanh khi khoan khi nhặt rất vui tai. Mõ dùng để đánh cấp báo tin được đánh hai tiếng một liên hồi gọi là Radãng khoq tủnq jal, dùng để báo tin vui đánh hai hồi ba tiếng gọi là Radãng khoq iơu gưq.
11. MÃ LA THỔI ỐNG (CHHAR AYÙQ)
Dùng 9-12 ống tre, nứa, lồ ô lớn nhỏ, ngắn dài khác nhau xếp thành nhiều hàng, thổi hơi vào ống sẽ phát ra âm thanh. Loại nhạc cụ này được thổi theo điệu nhạc mã la hoặc điệu múa mã la nên có tên gọi là mã la thổi ống.
12. ỐNG SÁO VỖ (CADÈT)
Làm bằng sừng trâu, sừng sơn dương hoặc ngà voi, còn gọi là SÁO MỎ CÒ (TUBUAIQ DRÀC, TUBUAIQ GRƯQ ) vì dùng mỏ chim bồ cắt, mỏ chim phượng hoàng có hình thù giống mỏ chim cò.
13. SÁO DỌC (TALACỦNQ)
Làm bằng thân cây lay (cây nứa nhỏ), dài 28 cm, đường kính 5 cm, trên thân dùi 5 lỗ là 5 nốt nhạc. Trên đầu sáo có một lưỡi lam bằng cây lay vát mỏng, khi thổi ngậm hết phần lam thổi đẩy hơi vào. Âm vực trầm từ nốt fa 3 gạch khóa Sol đến nốt D trong dòng nhạc Ngũ cung Tây nguyên giọng trưởng.
14. SÁO DỌC (TALIAQ SAPUH)
Thân sáo dài nhưng chỉ có 3 lỗ .
15. SÁO VỖ (COQ TRÈT)
Sáo làm bằng ống tre, nứa.
(Theo YAHOO!360 PLUS)