Mô tả cây
Bạch hoa xà là một loài cỏ sống dai, cao 0,30-0,60m, có thân rễ, thân có đốt và nhẵn. Lá mọc so le, hình trứng đầu nhọn, phía cuống hơi như ôm vào thân, mép nguyên, không có lông, nhưng mặt dưới hơi trắng nhạt. Hoa màu trắng mọc thành bông ở đầu cành hay kẽ lá, đài hoa có lông dài, nhớt. Tràng dài gấp 2 lần đài. Mùa hoa gần như quanh năm nhưng nhiều nhất các tháng 5-6.
Công dụng và liều dùng
Cây bạch hoa xà mới chỉ thấy được dùng trong phạm vi nhân dân làm thuốc chữa những bệnh ngoài da, những vết loét, vết thương. Thường dùng rễ hay lá giã nhỏ với cơm cho thành một thứ bột nhão, đắp lên những nơi sưng đau. Có nơi sắc rễ lấy nước bôi ghẻ, lá rửa sạch hễ thấy nóng thì bỏ ra. Do nhựa của cây bạch hoa xà làm chậm sự thành sẹo cho nên một số dân Châu Phi đã dùng nhựa cây này bôi lên các hình vẽ trên người bằng dao cạo để cho hình nổi lên nó có tác dụng tăng sinh trưởng những tổ chức đã bị rạch.
Tại một số nước Châu Phi, nhân dân dùng bột rễ cây này trộn với chất nhầy của một loại dâm bụt có nơi gọi là cây mướp tây để đắp lên các vết hủi, sau đó người ta đắp lên đó một loại lá khô của cây có nhựa chưa xác định được tên khoa học, nhưng nhân dân Nigiêria (Châu Phi) đã gọi tên là cây Niêcca.
Tại Ấn Độ và Nhật Bản , người ta dùng rễ cây ngày làm thuốc sẩy thai: Cho uống bột rễ cây này hay tán một ít bột cho vào khoang tử cung, thai sẽ tự ra do bị kích thích, nhưng hay gây ra viêm tử cung có khi chết người.
Lá xào ăn được, ăn nhiều thì tẩy. Nấu canh với dấm hay chanh. Uống độ một bát canh, sau 1 giờ thì đi ngoài, người không mệt, nếu muốn thôi đi ngoài, vò lá với nước lạnh uống nửa chén, uống lạn. Cần chú ý nghiên cứu.
Đức Doãn (Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)