Mô tả cây
Ô rô là một loại cỏ sống lâu năm, rễ hình thoi, có nhiều rễ phụ, thân cao 58-100cm hay hơn, thân màu xanh, có nhiều rãnh dọc, nhiều lông. Lá ở góc dài 20-40cm hay hơn, rộng 5-10cm, hai lần xẻ lông chim, thành thùy, mặt lông, có gân chính giữa nổi rõ. Cánh hoa màu tím đỏ. Quả thuôn dài 4mm, nhẵn, hơi dẹt. Mùa hoa vào các tháng 5-7, mùa quả vào thánh 5-9.
Công dụng và liều dùng
Đại kế hay ô rô được nhân dân dùng làm thuốc từ lâu đời. Vị này đã được ghi trong Danh y biệt lục (502-549) và Bản thảo cương mục (1596).
Theo tính chất ghi trong sách cổ, ô rô vị cam (ngọt), khổ (đắng), lương (mát), chủ yếu chữa thổ huyết, máu cam, tiểu tiện ra máu, bị đánh hay ngã mà chảy máu băng đới, còn có tác dụng làm mát huyết, tiêu thũng, thông sữa. Có thể dùng cây và lá hay rễ tươi giã ép lấy nước hoặc phơi khô sắc uống.
Liều dùng hằng ngày: Cây tươi 100 đến 180g, cây và rễ khô 40-60g. Có người chỉ dùng 6-12g cây khô sắc uống phối hợp với các vị khác.
Mới đây trong quân y viện 108 người ta đã dùng ô rô sắc uống chữa phù thận có kết quả rất tốt.
Đơn thuốc có ô rô
Đại kế 20g, bổ hoảng 8g, táo đen 10 quả, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày để chữa kinh nguyệt quá nhiều, băng huyết tử cung.
Đức Doãn (Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)