Chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc tại Hội nghị Trung ương 8 - Sự chuyển hướng và nghệ thuật lãnh đạo tài tình của Đảng

Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ không chỉ lôi cuốn nhiều nước đế quốc tham chiến mà còn làm xuất hiện tình thế cách mạng và vấn đề giành chính quyền ở các nước thuộc địa và phụ thuộc được đặt lên hàng đầu!

Nắm chắc xu thế phát triển của cuộc chiến tranh, sớm nắm bắt thời cuộc và dự báo xu thế phát triển của nó, sau 30 năm bôn ba đi tìm đường cứu nước, ngày 28-1-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã trở về nước, triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Pắc Bó - Cao Bằng từ ngày 10 đến 19-5-1941.

Hội nghị đã xác định: Tính chất của cách mạng Đông Dương trong lúc này không phải là cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai nhiệm vụ: phản đế và điền địa mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp lúc đó là giải phóng dân tộc. Tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại là cách mạng giải phóng dân tộc, “nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương”. Lúc này Đảng ta “chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc. Không phải giai cấp vô sản Đông Dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa đi đâu, cũng không phải đi lùi lại một bước, mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà bước một bước dài hơn”[1]. Đồng thời, Hội nghị chỉ ra mâu thuẫn dân tộc đang phát triển gay gắt dưới hai tầng áp bức Nhật, Pháp và phân tích: “Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”[2]. Từ đó, xác định rõ kẻ thù của cách mạng: “Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”[3].

Về thái độ chính trị của các giai cấp, Hội nghị nhận xét: giai cấp vô sản và dân cày nghèo “đã hăng hái chống đế quốc quyết liệt hơn”. Giai cấp tiểu tư sản “đều hăng hái tham gia hoặc cảm tình với cách mạng”. Giai cấp địa chủ, phú nông và một phần tư bản bản xứ, chỉ trừ một số ít làm tay sai cho đế quốc, còn “phần đông có cảm tình với cách mạng hoặc giữ thái độ trung lập”. Đảng ta khẳng định: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương hợp với nguyện vọng chung của tất cả nhân dân Đông Dương”[4]. “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc”[5]. Vì vậy, Đảng ta chủ trương “thay đổi chiến lược” và giải thích rõ về nội dung sự thay đổi đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. “Trong giai đoạn hiện tại ai cũng biết rằng: nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được. Vậy thì trong lúc này muốn giải quyết nhiệm vụ giải phóng không thể đưa thêm một nhiệm vụ thứ hai chưa cần thiết với toàn thể nhân dân, giải quyết trước mà có hại cho nhiệm vụ thứ nhất”[6]. Vấn đề ruộng đất mà Hội nghị Trung ương 8 bàn đến là chia lại công điền và chia ruộng đất “tịch thu của Việt gian phản quốc”, tức là ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù của dân tộc, chứ không phải của địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế. Vì thế, “trong khi tuyên truyền, không được dùng những khẩu hiệu quá thời... Không nên nói đánh đổ Nam triều phong kiến và tịch thu ruộng đất của địa chủ mà nói diệt trừ bọn Việt gian phản quốc”[7].

Đường lối chiến lược của Đảng ta tại Hội nghị Trung ương 8 chính là sự trở về và hoàn chỉnh tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản đã được Hồ Chí Minh nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, không chỉ giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu mà còn đề ra nhiều chủ trương, chính sách cụ thể nhằm động viên mọi tầng lớp nhân dân tiến lên, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Tư tưởng chiến lược giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh đến đây đã được hoàn chỉnh. Qua đó, cũng thể hiện sự đổi mới về tư duy chính trị, nhận thức thực tiễn, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu - nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, cả dân tộc bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh xây dựng lực lượng cách mạng, tập trung mọi lực lượng cho phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị cho khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương.

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác xây dựng lực lượng vũ trang - một vấn đề rất quan trọng và cần kíp cho khởi nghĩa giành chính quyền. Vì, muốn có bạo lực cách mạng thì bên cạnh lực lượng chính trị hùng hậu cần phải có lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Từ đây, nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh xây dựng các đội vũ trang cách mạng tập trung làm nòng cốt cho phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị cho khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng địa phương. Vì vậy, đội du kích Bắc Sơn được đổi tên thành Đội cứu quốc quân Bắc Sơn và được nâng lên thành Trung đội Cứu quốc quân 1. Từ đội Cứu quốc quân đầu tiên đã phát triển thành ba trung đội Cứu quốc quân, hoạt động trên địa bàn rộng lớn, không chỉ tổ chức huấn luyện cấp tốc về quân sự, chính trị mà còn phối hợp với quần chúng bảo vệ trật tự, trị an làng bản, bảo vệ cơ sở cách mạng, phát động phong trào tự mua sắm vũ khí… đánh dấu sự phát triển vượt bậc của lực lượng vũ trang cách mạng.

Cùng với bước phát triển mạnh mẽ của các trung đội Cứu quốc quân và lực lượng vũ trang, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại châu Nguyên Bình - Cao Bằng gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng và đồng chí Xích Thắng làm chính trị viên. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - lực lượng chủ lực đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam vừa mới ra đời đã chứng minh sức mạnh của đội quân tiên phong, mưu trí táo bạo bằng thắng lợi đầu tiên hạ hai đồn Phay Khắt và Nà Ngần trong hoàn cảnh “ăn mỗi ngày một bữa, đánh mỗi ngày hai trận”. Thắng lợi này đánh dấu bước tiến bộ nhanh về trình độ và cách đánh, trở thành lực lượng nòng cốt trong chiến đấu, góp phần giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, đồng thời là bước chuẩn bị quan trọng để cả nước sẵn sàng Tổng khởi nghĩa khi thời cơ chín muồi.

Bên cạnh tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng, Đảng ta quan tâm giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết của ba nước Đông Dương. Vấn đề này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ trong Chương trình vắn tắt của Đảng năm 1930. Song, nó không sớm được chấp nhận. Đến Hội nghị Trung ương 8, Đảng mới quyết định thành lập ba mặt trận riêng ở ba nước. Ở Việt Nam là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh). Đảng ta và Việt Minh phải hết sức giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào tổ chức ra Cao Miên độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh... Đây là quyết sách chiến lược đúng đắn và sáng suốt. Nó đã phát huy được vai trò sức mạnh của từng mặt trận ở từng nước trên bán đảo Đông Dương trong quá trình “chung lưng đấu cật” chống lại kẻ thù chung!

Đầu năm 1945, đúng như dự báo của Đảng, mâu thuẫn Nhật - Pháp ở Đông Dương đã lên tới đỉnh cao giống như “cái nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ”. Đêm ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị xác định: Thời cơ tổng khởi nghĩa chưa chín muồi, nhưng đang nhanh chóng đến chín muồi… chủ trương thay khẩu hiệu “đánh đuổi Pháp - Nhật” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật và tay sai”. Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước và làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thực hiện khởi nghĩa từng phần ở những địa phương có điều kiện.

“Thời cơ ngàn năm có một” đã đến khi Đức, Nhật liên tiếp đầu hàng Đồng minh. Trong nước Chính phủ tay sai Trần Trọng Kim tê liệt, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy! Ngay trong đêm 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 - hiệu triệu toàn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Trong thư kêu gọi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[8]. Người cũng khẳng định: “Chúng ta không thể chậm trễ, toàn thắng nhất định sẽ về ta”.

Cả dân tộc muôn người như một vùng lên giành chính quyền về tay mình. Không khí Tổng khởi nghĩa diễn ra sôi nổi khắp cả nước. Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội. Ngày 23-8, Thừa Thiên Huế giành được chính quyền, vua Bảo Đại đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng. Ngày 25-8, nhân dân Sài Gòn - Gia Định giành được chính quyền… Hành động vùng dậy lay trời chuyển đất của hàng triệu quần chúng, tạo nên một ưu thế áp đảo, giáng một đoàn quyết định vào tất cả cơ quan đầu não của bọn việt gian, làm tê liệt mọi sự kháng cự của các thế lực thù địch, khiến chúng không kịp trở tay, giành chính quyền về tay nhân dân. Cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ trong cả nuớc vào ngày 28-8-1945. Ngày 2-9-1945, tại vườn hoa Ba Đình - Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và khẳng định toàn thể dân tộc Việt Nam quyết tâm đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Thắng lợi của dân tộc ta trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh dấu bước ngoặc lịch sử vĩ đại, là thắng lợi đầu tiên của Chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam, đồng thời, chứng tỏ nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Lịch sử đã chứng minh một cách rõ ràng tính cách mạng, khoa học đúng đắn con đường giải phóng dân tộc mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lựa chọn và thực hiện thắng lợi ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam - đã từng là tấm gương ngưỡng mộ và cổ vũ các dân tộc bị áp bức noi theo. Tuy vậy, sau những biến cố chính trị ở Đông Âu và Liên Xô cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 thế kỷ XX, một số kẻ cơ hội chính trị đã dấy lên phong trào công kích vào con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Họ cho rằng sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sai ngay từ đầu và đã đưa dân tộc ta vào ngõ cụt. Rằng giá như chúng ta đi theo con đường khác hoặc như: cụ Phan Bội Châu, hay cụ Phan Chu Trinh đã lựa chọn thì biết đâu nước ta vẫn giành được độc lập, kinh tế - xã hội, văn hóa… vẫn phát triển như một số quốc gia trong khu vực và có thể tránh được mấy cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, hao tổn biết bao xương máu mà ngày nay nhân dân ta vẫn chưa thoát khỏi nước nghèo, chậm phát triển? Họ ra sức phủ nhận tính chất của thời đại ngày nay không còn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội để cổ súy cho cái gọi là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Mác - Lênin.

Một số người khác tỏ ra thận trọng hơn, tuy không công khai bác bỏ con đường mà Đảng ta và Hồ Chí Minh đã lựa chọn, song họ cho rằng lẽ ra sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta không nên vội vàng bước ngay vào cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà nên có một thời gian để làm nốt những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đặt nhiệm vụ giải quyết những nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa lúc này là quá sớm! Họ cho rằng cuộc sống sẽ phát triển theo đúng quy luật tự nhiên của nó, không thể đốt cháy giai đoạn cũng như không thể bỏ qua một phương thức sản xuất khi những tiền đề vật chất - kinh tế chưa chín muồi!

Thực chất của những quan điểm trên dù được che đậy và ngụy trang khéo léo tinh vi dưới mọi hình thức thì về bản chất đều nhằm tới mục đích phủ nhận con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Những ý kiến đó mới nghe tưởng chừng có lý, dễ dàng lọt vào tai những ai nhẹ dạ cả tin, hoặc thiếu một sự suy đoán khoa học. Thử hỏi họ đã đứng trên lập trường nào để xem xét và phê phán con đường mà dân tộc ta đã đấu tranh lâu dài, đổ bao xương máu mới giành lại được độc lập tư do cho dân tộc? Và làm xong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhân dân ta, dân tộc ta sẽ bước tiếp dưới ngọn cờ của giai cấp nào? Liệu giai cấp tư sản có đủ uy tín và năng lực để đem lại tự do, ấm no hạnh phúc cho toàn dân? Không nhẽ sự hy sinh xương máu để giành lại độc lập cho dân tộc của nhiều thế hệ nguời Việt Nam mấy chục năm ròng đấu tranh chống lại các thế lực đế quốc xâm lược đổi lấy cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho thế hệ hôm nay lại đem trao cho giai cấp tư sản và chấp nhận sự tồn tại của một chế độ mà lịch sử thế giới hiện đại đã và đang chứng minh tính chất lỗi thời của nó?

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1930 là con đường duy nhất đúng, đường lối đó đã, đang được nhân dân Việt Nam đồng tình ủng hộ, dứt khoát không thay đổi và không ai có thể thay đổi. Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, ngày càng khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Ở nước ta không có đất cho chủ nghĩa tư bản thống trị như một chế độ xã hội, không có đất cho một chủ thuyết chính trị nào khác ngoài độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với ngọn cờ Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh!

[1]. Văn kiện Đảng toàn tập, t.7, Nxb CTQG, H.2000, tr.113.

[2]. Sđd, t.7, tr.112.

[3]. Sđd, t.7, tr. 115.

[4]. Sđd, t.7, tr. 119.

[5]. Sđd, t.7, tr. 113.

[6]. Sđd, t.7, 113.

[7]. Sđd, t.7, tr.127.

[8]. Hồ Chí Minh, toàn tập,Nxb CTQG, H.2002, t.3, tr. 554.

Nguồn Tạp chí Xây dựng Đảng