66 năm sau Cách mạng tháng Tám, đất nước vươn lên trên vị thế mới

Kể từ Cách mạng tháng Tám 1945, đất nước ta đã trải qua không ít khó khăn gian khổ vươn lên đạt nhiều thành tựu lớn. Kết quả của những nỗ lực mà nhân dân ta vun đắp là hành trang để đất nước tiến vào thập kỷ thứ 2, thế kỷ XXI trên một vị thế mới.

Về mặt chính trị, đối ngoại, Việt Nam đã là thành viên của Liên hợp quốc, và ASEAN. Việt Nam có quan hệ ngoại giao với trên 170 nước, có quan hệ buôn bán với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia hầu hết các tổ chức và định chế quốc tế, là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Trong 66 năm qua vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng tăng.

Về kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu năm 2010 gấp nhiều lần năm 1945.

Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu năm 2010 so với năm 1945 (lần).
Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê

GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86 USD, khi đó nước ta là một trong số ít nước thu nhập thấp nhất thế giới, nhưng sau đó đã tăng gần như liên tục qua các năm và đến năm 2010 đã đạt 1.169 USD. Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình.

GDP của Việt Nam tính đến năm 2010 đã đạt 30 năm liên tục tăng trưởng. Nếu bình quân thời kỳ 1977- 1980, tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 0,4%/ năm; thời kỳ 1977- 1985 chỉ tăng 3,7%/ năm; thời kỳ 1986- 1990 cũng chỉ đạt 4,4%/ năm, thì bình quân thời kỳ 1991- 2010 đạt xấp xỉ 7,4%/ năm, thuộc loại cao trong khu vực, ở châu Á và trên thế giới.

Quy mô kinh tế năm 2010 gấp khoảng 19,6 lần năm 1955, gấp khoảng 5,1 lần năm 1985 và gấp gần 4,2 lần năm 1990, gấp trên 2 lần năm 2000.

Cơ cấu kinh tế đó có sự chuyển dịch quan trọng: tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản đã giảm từ 40,2% (1985) xuống còn khoảng 20% (2010), của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đó tăng từ 27,4% lên gần 41%, của nhóm ngành dịch vụ tăng từ 32,4% lên đạt trên 39,1% trong thời gian tương ứng.

Nông nghiệp của nước ta với sự biến đổi thần kỳ đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước còn xuất khẩu với khối lượng lớn, đứng thứ 2 thế giới, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thuỷ sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.

Sản xuất công nghiệp trước Cách mạng tháng Tám còn rất sơ khai. Cả nước chỉ có 200 xí nghiệp, với 90.000 công nhân; số sản phẩm chỉ đếm được trên đầu ngón tay với sản lượng còn rất thấp. Đến nay cả nước có khoảng nửa triệu doanh nghiệp, trên 1 triệu cơ sở cá thể, với khoảng 5 triệu lao động… Sản phẩm công nghiệp vừa nhiều gấp bội về số loại, vừa gấp nhiều lần về số lượng.

Về thương mại trước Cách mạng còn rất nhỏ bé phân tán. Ngày nay, việc mua bán ở trong nước đã được tự do hoá, hàng nghìn siêu thị, trung tâm thương mại được hình thành. Số nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ buôn bán nếu năm 1986 mới có 43 thì đến nay đã lên đến trên 210. Kim ngạch xuất khẩu năm 2011 này có thể đạt trên 86 tỷ USD. Tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP đã vượt qua mốc 150%, đứng thứ 5 thế giới.

Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7/2011 đăng ký đạt trên 222 tỷ USD, thực hiện đạt trên 84,2 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt trên 70 tỷ USD, giải ngân đạt trên 30 tỷ USD.

Về mặt xã hội, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã đạt được 3 sự vượt trội: đã liên tục tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.

Nhiều chỉ tiêu về xã hội năm 2010 cũng gấp nhiều lần trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Một số chỉ tiêu xã hội năm 2010 so với năm 1945 (lần).
Nguồn số liệu: Tổng cụcThống kê

Với những thành tựu to lớn đã đạt được, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng tự tin bắt tay thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2011 - năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm 2011- 2015 và chiến lược 10 năm 2011- 2020. Mục tiêu tổng quát là đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đây là mục tiêu rất cao, phải có giải pháp đồng bộ và quyết liệt mới có thể thực hiện được. Trong các giải pháp trên, thì 3 khâu đột phá chiến lược là hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế.

Nguồn www.chinhphu.vn