TUỔI TÂN MÃO
Nguyễn Đặng Đạo (1651-1719): Danh sĩ đời Lê Hy Tông, đậu đệ nhất giáp Tiến sĩ năm 1683. Vì quê ông ở làng Bịu, nên tục gọi ông là Trạng Bịu. Ông nổi tiếng văn thơ và đức độ, làm Tham Tụng, sau thăng Thượng Thu Bộ Lễ kiêm Đông các đại học sĩ- Ông tận tụy mưu phúc lợi cho nhân dân, nên được sĩ phu và nhân dân rất trọng vọng. Khi mất được truy tặng Thượng Thư Bộ Lại, tước Quốc Công.
Tạ Quang Cự (1771-1862): Ông là danh tướng triều Nguyễn, quê gốc tỉnh Nghệ An, sau dời đến huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Năm 1827, ông cùng Thống chế Phan Văn Thúy và Phó tướng Nguyễn Văn Xuân lập chiến công hiển hách giữ vững miền Nghệ Tĩnh, chống lại quân Xiêm xâm lược.
TUỔI QUÍ MÃO
Nguyễn Thiếp (1723-1804): Sinh năm 25 tháng 8 năm Quí Mão, quê làng Nguyệt Ao, huyện La Sơn, Hà Tĩnh, Chúa Trịnh Sâm nhiều lần vời ra làm quan, nhưng ông từ chối, làm nhà ở ẩn trên núi Thiên Nhẩn. Vua Quang Trung trân trọng mời ông ra giúp nhà Tây Sơn, làm Viện trưởng viện Sùng chính, chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm, khi vua Quang Trung mất, ông rút lui ra khỏi chính trường.
TUỔI ẤT MÃO
Hoàng Văn Thái (1915-1986): Ông là Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên tên là Hoàng Văn Xiêm, sau đổi tên là Thái, người tỉnh Thái Bình, đông trong tiền khởi nghĩa. Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông đã đóng góp trong lĩnh vực quân sự và chiến tranh du kích. Do tài năng của mình mà ông được giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong chính quyền và đã được Đảng và Nhà nước tặng nhiều Huân chương cao quý.
Trần Nhật Duật (1255-1331): Danh tướng đời Trần, có công lớn trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, đặc biệt là trận Hàm Tử. Ông chẳng những giỏi chính trị, quân sự, lại thông thạo ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, ông còn là nhà soạn âm nhạc nổi tiếng ở cung đình, một văn sĩ có danh tiếng qua tác phẩm “Lĩnh Nam Dật Sử”.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320): Danh tướng đời Trần, tài kiêm văn võ được Hưng Đạo Vương tin tưởng gả con gái cho và tiến cử với triều đình, cho giữ nhiều chức vụ quan trọng. có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, từng giữ chức Điện súy thượng tướng quân, tước Quân nội hầu.
TUỔI ĐINH MÃO
Trần Quốc Toản (1267-1285): Anh hùng kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Vì tuổi nhỏ, không được dự họp tham mưu ở Bình Than, ông tập hợp các thiếu niên dũng cảm, sắm vũ khí, may lá cờ thêu 6 chữ vàng “Phá cường địch, báo hoàng ân” rồi đem quân đánh giặc, có lúc theo Thượng tướng Trần Quang Khải góp phần chiến thắng trận Chương Dương vang dội trong lịch sử chống ngoại xâm. Ông hy sinh lúc mới 18 tuổi, được truy tặng tước Hoài Văn Hầu.
Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872): Nhà thơ, tác giả tuồng “Kim Thạch kỳ duyên” năm 1835 đỗ giải nguyên trường thi Gia Đinh. Sơ bổ tri huyện Phước Long, sau đổi về huyện Trà Vinh, bị quan trên tham nhũng cáo gian tìm cách hãm hại. Vợ ông là Nguyễn Thị Tồn đi ghe ra Huế kêu oan cho chồng. Tài đức của ông được sĩ phu và nhân dân trọng vọng mến yêu.
Phan Bội Châu (1867-1940): Chí sĩ cách mạng, nổi tiếng thần đồng khi mới 13 tuổi trong kỳ sát hạch ở tỉnh Nghệ An. Năm 1900 đỗ Giải nguyên và bắt đầu dấn thân vào con đường cứu nước. Ông chủ xướng phong trào Đông du và đã từng sang Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan vận động cách mạng. năm 1927 bị Pháp bắt và an trí ở Huế, thành “Ông già Bến Ngự”.
TUỔI KỶ MÃO
Trịnh Nhả (1399-1451): Ông là danh tướng thời Lê Thái Tổ. Quê ở xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Ninh, tỉnh Thanh Hóa. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Đồng thời ông có công lớn giúp Lê Thái Tổ nên được mang họ vua gọi là Lê Khả. Ông lập được nhiều chiến công đánh quân xâm lược, nổi tiếng trong các trận đánh. Ở Tà Lân, Kha Lưu, giải phóng vùng Tâm Giang… Đánh tan viện binh của Mộc Thanh ở đèo Lê Hoa năm 1427.
Sau khi kháng chiến thành công, năm 1427, ông được phong Kim Tử Vinh Lộc đại phu, vệ tướng quân. Kỵ đô úy và giữ nhiều chức trách quan trọng và to lớn trong những năm sau này.
Nghiêm Ích Khiêm (1459-?): Ông là võ tướng đồ: Lê Thánh Tông. Quê ở làng Lan Độ huyện Đông Ngạn, tỉnh Bắc Ninh. Ông nổi tiếng về thơ văn, có sức mạnh và thông hiểu binh pháp, văn võ toàn tài, làm quan trong triều ít lâu, ông cài qua chức võ thăng cẩm y vệ đô chỉ huy sứ.
Hoàng Phan Thái (1819-1865): Chí sĩ đời Tự Đức, nổi tiếng thông minh, có khuynh hướng duy tân nước nhà. Ý định của ông và các đồng chí cùng thời ấy bị triều đình Huế cho là đại nghịch, nên ông bị giết năm 1870.
Nguyễn Miên Thẩm (1819-1870): tức Tùng Thiện Vương, con của vua Minh Mạng, cùng em là Tuy Lý Vương nổi tiếng thơ hay.