Hỏi: Khi thu hồi đất phải dựa vào căn cứ gì, thẩm quyền thu hồi đất thuộc cơ quan nào?
Trả lời: Thứ nhất, việc thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng phải dựa trên các căn cứ sau đây: Dự án thuộc các trường hợp thu hồi đất quy định tại Điều 61 (quy định thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh) và Điều 62 (quy định thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng); Kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; Tiến độ sử dụng đất thực hiện dự án. Thứ hai, việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai (theo điều 64); thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (theo điều 65) phải được thực hiện bằng văn bản của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Chính phủ. Thứ ba, thẩm quyền thu hồi đất theo quy định tại điều 66 Luật đất đai (sửa đổi năm 2013) như sau:
1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
- Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;
- Thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
2. Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây:
- Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư;
- Thu hồi đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
3. Trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất.