Việt Nam có khoảng 24.800 người mù do Glôcôm

Glôcôm là một bệnh nguy hiểm, một trong những nguyên nhân chủ yếu gây mù lòa vĩnh viễn.

Bệnh Glôcôm là gì?

Bình thường trong mắt luôn có sự cân bằng giữa lượng dịch (thủy dịch) được tiết ra từ thể mi và lượng dịch được dẫn lưu ra ngoài qua một bộ phận gọi là vùng bè. Khi đường dẫn lưu ra ngoài bị cản trở sẽ gây ra tăng áp lực trong mắt và gây tổn hại lên dây thần kinh thị giác, gây ra bệnh Glôcôm.

Tình hình bệnh Glôcôm ở trên thế giới và Việt Nam

Theo bác sĩ Vũ Anh Tuấn, khoa Glôcôm (Bệnh viện Mắt Trung ương), đây là một bệnh nguy hiểm, thường gặp, mang tính xã hội cao, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng vì là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây mù lòa vĩnh viễn trên thế giới cũng như ở Việt Nam.

Glôcôm đứng thứ hai trong các nguyên nhân gây mù ở hầu hết các khu vực trên thế giới, thường chỉ đứng sau đục thể thủy tinh. Theo công bố của tổ chức Y tế thế giới WHO năm 2008 trong Hội nghị Phòng chống mù lòa thế giới ở Argentina trong các nguyên nhân gây mù lòa nguyên nhân do Glôcôm chiếm tới 10%.

Theo các nghiên cứu mang tính dự báo trong khu vực và trên thế giới, số lượng người bệnh Glôcôm sẽ tăng lên đáng kể vào những năm tới. Ước tính sẽ có 80 triệu người mắc bệnh Glôcôm vào năm 2020, chiếm tỷ lệ 2,86% trên quần thể dân số trên 40 tuổi.

Số người mù lòa cả hai mắt do Glôcôm sẽ tăng từ 8,4 triệu năm 2010 lên 11,2 triệu người vào năm 2020. Số người mù ngày càng tăng do sự bùng nổ của dân số thế giới. Đa số những người mù do Glôcôm hiện nay sống ở các nước đang phát triển, đặc biệt ở những vùng nông thôn, nơi thiếu các dịch vụ chăm sóc mắt hoặc khó tiếp cận tới các dịch vụ đó. Có tới 47% lượng người bệnh Glôcôm nằm tại châu Á. Các nước Đông Nam Á vào năm 2010 có khoảng 4,2 triệu người bệnh Glôcôm, và quần thể dân số trên 40 tuổi bị Glôcôm chiếm tỷ lệ khoảng 2,38% (gần 2 triệu người).

 
Vào năm 2020 số lượng này sẽ tăng lên khoảng 6 triệu người (theo điều tra của Quigley và Broman).

Tại Việt Nam qua điều tra RAAB (Rapid Assessment of Avoidable Blindnes) năm 2007, tỷ lệ mù hai mắt do Glôcôm ở người > 50 tuổi chiếm 6,5%, đứng thứ hai trong các nguyên nhân gây mù ở Việt Nam. Việt Nam hiện nay có khoảng 24.800 người mù do Glôcôm.

Đối tượng nào dễ mắc bệnh Glôcôm:

- Người trên hơn 40 tuổi

- Chủng tộc (da đen cao hơn 5 lần)

- Có tiền sử gia đình có người bị Glôcôm

- Có cấu trúc giải phẫu thuận lợi: viễn thị cao, góc tiền phòng hẹp

Các triệu chứng thường gặp của bệnh Glôcôm

Bệnh Glôcôm có 2 dạng lâm sàng chính: Glôcôm góc đóng và Glôcôm góc mở. Bệnh Glôcôm góc đóng thường có biểu hiện cơ năng rầm rộ như: nhìn mờ, nhìn đèn có quầng xanh đỏ, đau nửa đầu cùng bên, nôn, buồn nôn, mắt đỏ nhiều, sưng và chảy nhiều nước mắt. Tuy nhiên bệnh Glôcôm góc đóng cũng có thể biểu hiện âm thầm gọi là Glôcôm góc đóng mạn tính.

Ngược lại với Glôcôm góc đóng, bệnh Glôcôm góc mở thường biểu hiện rất âm thầm, mang tính mạn tính: không đau nhức, không đỏ mắt, người bệnh thường chỉ tự nhận ra mình có bệnh khi mắt đã nhìn mờ nhiều hoặc thị trường đã bị tổn hại nặng (co hẹp từ ngoại biên, hoặc mất 1 vùng nhìn ở trung tâm).

Glôcôm là bệnh lý có thế dẫn đến mất thị lực vĩnh viễn không thể hồi phục nếu không được điều trị kịp thời. Vậy người bệnh có thể tự phát hiện sớm được bệnh Glôcôm hay không?

Bệnh nhân không thể tự chẩn đoán được bệnh Glôcôm. Để chẩn đoán được cần được khám bởi bác sĩ chuyên khoa mắt: bác sĩ sẽ xác định bệnh dựa trên đo nhãn áp (đo áp lực trong mắt), làm thị trường và soi đáy mắt để đánh giá dây thần kinh thị giác. Tuy nhiên bệnh nhân có thể tự giúp mình và giúp bác sĩ bằng cách đi khám sớm và kịp thời.

Bệnh Glôcôm có di truyền không:

Di truyền trong glôcôm góc đóng cũng đã được đề cập đến với tỷ lệ rất khác nhau. Nhiều tác giả đã công bố có một tỷ lệ rất cao các bệnh nhân Glôcôm có yếu tố di truyền trội bởi 2 hay nhiều gen khác nhau. Một nghiên cứu tiến hành tại Việt Nam (năm 1998) cho thấy tỷ lệ phát hiện sớm Glôcôm trên những người ruột thịt của bệnh nhân Glôcôm góc đóng là 38,09%.

Các hậu quả của bệnh Glôcôm:

Bệnh Glôcôm là bệnh lý của dây thần kinh thị giác do vậy các hậu quả cơ bản của nó là tổn hại chức năng thị giác thể hiện qua 2 khía cạnh: tổn hại trường nhìn (vùng mà mắt bao quát được), co hẹp từ ngoại vi, ám điểm cạnh trung tâm và tổn hại thị lực trung tâm cuối cùng sẽ dẫn đến mù lòa. Trong một số trường hợp mù lòa còn có thể kèm theo đau nhức dẫn đến phải bỏ mắt. Lưu ý là các tổn hại chức năng thị giác của bệnh Glôcôm là không hồi phục được.

Phương pháp điều trị Glôcôm hiện nay?

Điều trị phụ thuộc vào thể bệnh: Glôcôm góc đóng giai đoạn sớm có thể điều trị bằng laser: tạo một đường lưu thông mới của thủy dịch qua lỗ mở bằng laser của mống mắt từ hậu phòng ra tiền phòng; giai đoạn muộn phải phẫu thuật. Còn Glôcôm góc mở điều trị ban đầu là thuốc hạ nhãn áp, nếu không đạt yêu cầu phải chuyển điều trị bằng laser hoặc phẫu thuật.

Bệnh Glôcôm có phòng được không?

Cho đến nay chưa có một phương pháp nào giúp phòng bệnh Glôcôm hiệu quả. Mặc dù vậy, tổn hại chức năng thị giác do Glôcôm có thể phòng tránh được nếu được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời. Nên có ý thức đi khám sàng lọc bệnh đối với những người từ 40 tuổi trở lên, đặc biệt nếu có người trong gia đình đã mắc bệnh này.

Đối với với bệnh nhân Glôcôm phải có ý thức tuân thủ điều trị nghiêm túc bởi bệnh Glôcôm nguyên phát sẽ không thể điều trị khỏi được, nếu điều trị đúng và nghiêm túc bệnh sẽ ổn định nhưng bệnh sẽ theo ta suốt đời. Nếu không tuân thủ điều trị bệnh sẽ lại tiếp tục tiến triển và cần nhấn mạnh lại rằng các tổn hại chức năng thị giác do Glôcôm là không thể hồi phục được.

Nguồn VOV online