Khởi thủy từ sách thuốc cổ nổi tiếng Tế sinh phương do y gia trứ danh Nghiêm Dụng Hòa, tự Tử Lễ, người Giang Tây, Trung Quốc biên soạn. Thành phần gồm: thương nhĩ tử 2 tiền rưỡi (7g), tân di nửa lạng ta (15g), bạch chỉ 1 lạng (30g), bạc hà nửa tiền (1,5g). Tất cả sấy hoặc phơi khô, tán thành bột mịn, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 6g. Theo cổ nhân, nếu dùng nước sắc củ hành và lá trà tươi để uống bột thuốc là tốt nhất. Thương nhĩ tử tán có công dụng tán phong hàn, thông tỵ khiếu (làm thông mũi), chỉ đầu thống (chống đau đầu), thường được dùng để trị các chứng bệnh về mũi xoang như chảy nước mũi trong và hắt hơi nhiều, ngạt mũi, chảy nước mũi tanh hôi kéo dài..., tương ứng với y học hiện đại là các bệnh như viêm mũi dị ứng, viêm mũi cấp và mạn tính, viêm xoang cấp và mạn tính... Trong Thương nhĩ tử tán, thương nhĩ tử vị cay đắng, tính ấm, có công dụng thông mũi, trừ phong thấp, chỉ thống (giảm đau). Bạch chỉ vị cay, tính ấm, có công dụng giải biểu, trừ phong táo thấp, tiêu thũng bài nùng (chống phù nề và làm hết mủ), chỉ thống. Tân di vị cay, tính ấm, có công dụng tán phong hàn, thông tỵ khiếu. Bạc hà vị cay, tính mát, có công dụng sơ tán phong nhiệt, thanh lợi đầu mục, lợi hầu, thấu chẩn.
Bạc hà vị cay, tính mát, có công dụng sơ tán phong nhiệt, thanh lợi đầu mục, lợi hầu, thấu chẩn.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, thương nhĩ tử có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, giảm đau, giảm ho, ức chế miễn dịch, chống ôxy hóa, hạ huyết áp và đường huyết, hưng phấn hô hấp và chống ung thư. Bạch chỉ có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, giảm đau, giải nhiệt, chống co giật, hạ huyết áp, chống ung thư và cầm máu. Tân di có tác dụng giảm đau, tiêu viêm, giảm phù nề, chống dị ứng, hạ huyết áp, kháng khuẩn, ức chế ngưng tập tiểu cầu, chống ung thư và làm hưng phấn hô hấp. Bạc hà có tác dụng giải nhiệt, giảm đau, kháng khuẩn, kháng virut, chống viêm, giảm ho, trừ đàm, giảm ngứa và lợi mật. Điều này giải thích vì sao 4 vị thuốc phối hợp với nhau trong phương thuốc Thương nhĩ tử tán lại có công dụng trị liệu các bệnh lý viêm nhiễm ở mũi xoang.
Lưu ý: Trong các sách thuốc cổ còn có 3 bài thuốc cùng mang tên Thương nhĩ tán là: (1) Thương nhĩ 3 lạng ta, sấy khô, tán bột, uống mỗi ngày 2 tiền khi bụng đói để chữa chứng ôn dịch, thời khí (theo sách Thánh tễ tổng lục). (2) Rễ thương nhĩ 2 lạng 5 tiền, ô mai 5 quả, rễ hành 3 cái, sắc với rượu, uống nóng để chữa mụn nhọt (theo sách Xích thủy huyền châu). (3) Cành và rễ thương nhĩ lượng vừa đủ sao đen tồn tính rồi tán bột, trộn với rượu, đắp vào tổn thương để trị mụn nhọt (theo sách Tam nhân chí nhất bệnh chứng phương luận).
Nguồn Báo Khánh Hòa điện tử