Kể lại cốt truyện, “diễn nôm” bài thơ
Đối với những tác phẩm văn xuôi bất luận là đề có yêu cầu gì thì học sinh cũng tha hồ kể. Mặc dù yêu cầu của đề là cảm thụ, đánh giá chứ không phải là kể lại câu chuyện. Nhiều bài thi rất dài, nhưng không có ý, mà chủ yếu là học sinh khoe trí nhớ của mình, kể lại chuyện, thậm chí còn thêm thắt nữa.
Đề yêu cầu phân tích hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành thì học sinh hầu như từ đầu đến cuối bài vanh vách kể lại cốt truyện. Đành rằng có trí nhớ tốt là đáng ghi nhận, song yêu cầu của người ra đề là muốn kiểm tra xem học sinh hiểu câu chuyện như thế nào, trình bày rõ ràng về một vấn đề cụ thể từ câu chuyện ấy, chứ không phải là kể lại câu chuyện một cách chán ngắt. Các chi tiết cần được dẫn ra một cách thông minh, để làm sáng tỏ luận điểm.
Đối với tác phẩm thơ thì không ít học sinh sa vào “diễn nôm” lại ý nghĩa của những câu thơ. Tuy cần phải cắt nghĩa, giảng giải để hiểu rõ thêm, để thấy được những đặc sắc riêng của câu thơ, bài thơ, nhưng không có nghĩa là học sinh chỉ việc diễn nôm lại ý nghĩa bài thơ. Câu “Câu thơ này cho thấy, đoạn thơ này nói lên, bài thơ này nghĩa là….”…đó trở thành “công thức” trong bài làm của không học sinh. Ngoài cắt nghĩa, giảng giải còn cần phải làm rõ các biện pháp tu từ, khả năng biểu đạt của ngôn từ, ngắt nhịp, hiệp vần…được tác giả sử dụng để cho thấy cái hay của câu thơ, bài thơ. Phân tích kiểu “diễn nôm” chỉ làm nghèo nàn, mất đi cái hay của thơ.
Nội dung trọng tâm chưa giải quyết vội liên hệ so sánh
Nhiều học sinh khi làm bài đã vận dụng thao tác so sánh. Đây là phương pháp sẽ đạt hiệu quả cao nếu như biết xử lí phù hợp. So sánh khiến cho vấn đề được mở rộng, thú vị hơn, chứng tỏ người viết có kiến thức, tư duy. Ví dụ khi phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng thì so sánh, liên hệ với bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, hai bài thơ cùng viết về những chiến sĩ Vệ quốc thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp…Tuy nhiên, không ít thí sinh trong khi so sánh lại rơi vào tình trạng nội dung trọng tâm chưa giải quyết đã vội liên hệ so sánh, nghĩa là sa đà vào phân tích nội dung liên hệ, mở rộng, mà lơ là phần nội dung chính của bài làm. Hậu quả là bài văn tuy có vẻ bay bổng, “uyên bác”, song về vấn đề chính chưa được trình bày đầy đủ, sâu sắc, nên kết quả vẫn không cao.
Gọi tên nhân vật không phù hợp
Trong bài làm, nhiều học sinh gọi tên nhân vật như chính tác giả gọi. Chẳng hạn gọi Chí Phèo là “hắn”, “y”, gọi Thị Nở là “thị”… Học sinh tưởng đúng, vì chính tác giả cũng viết như thế. Chỉ nhà văn mới có “thẩm quyền” gọi tên nhân vật như vậy, xuất phát từ phong cách ý đồ nghệ thuật riêng. Nên gọi một cách lịch sự, khách quan là nhân vật, hoặc chỉ gọi tên nhân vật.
Một số học sinh nhầm lẫn giữa nhà thơ với nhân vật trữ tình nên viết “Về với nhân dân, Chế Lan Viên vô cùng hạnh phúc, xúc động” (cảm nhận về bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên)…Đó là cách viết không chính xác mà phải viết là “nhân vật trữ tình”.
Cách gọi tên các nhân vật trong tác phẩm đòi hỏi sự tinh tế, lịch lãm của người đọc, mà các giáo viên cần hướng dẫn thường xuyên trong các bài dạy.
Không phù hợp với phong cách ngôn ngữ
Không ít thí sinh dùng các từ “Ôi, Than ôi, Biết mấy…” xuất hiện với tần suất khá cao trong bài. Khi yêu cầu bình luận về một câu danh ngôn về tình bạn, thí sinh viết “Các bạn ơi, tình bạn là thiêng liêng, cao quý lắm!”. Bài văn nghị luận là văn bản thuộc phong cách khoa học, cần chú trọng yêu cầu chính xác, khách quan, có bằng chứng xác đáng, lôgic. Vì vậy, viết “các bạn ơi”, “các bạn ạ”, “các bạn biết không” hay “kính thưa thầy cô”…đều không phù hợp. Và không phải là thêm vào mấy từ “Ôi, biết bao, biết mấy”…là bài văn có cảm xúc, hay hấp dẫn hơn.
Chưa nắm được kết cấu của bài nghị luận xã hội
Từ năm 2009 trong đề thi Ngữ văn có câu nghị luận xã hội (30% số điểm). Đa số học sinh mất nhiều điểm ở câu này, bởi vì chưa biết cấu trúc bài làm.
Bài nghị luận xã hội có hai dạng: Nghị luận (bàn bạc) về một tư tưởng, đạo lý. Nghĩa là trao đổi, thảo luận về một ý kiến, một quan điểm. Dạng thứ hai là nghị luận về một hiện tượng đời sống, yêu cầu người viết trình bày nhận thức, nêu quan điểm về những hiện tượng đáng lưu ý, “có vấn đề” trong đời sống. Ứng với mỗi dạng có cấu trúc làm bài khác nhau.
• Dạng nghị luận về một tư tưởng, đạo lí có cấu trúc chung:
Giải thích vấn đề cần nghị luận
Chứng minh trong thực tế cuộc sống
Bàn luận đánh giá đúng sai, mở rộng, liên hệ đến bản thân
• Dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống có cấu trúc chung:
Nêu thực trạng của hiện tượng
Nguyên nhân hiện tượng
Đề xuất giải pháp, phương hướng khắc phục hoặc phát huy
Học sinh cần phải lập dàn bài trước khi viết chính thức để tránh lan man và thiếu ý.
Ths. Đặng Quang Sơn
Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn