Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội

Trong phiên họp sáng 25/11, sau báo cáo giải trình thêm các vấn đề về kinh tế - xã hội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trực tiếp trả lời câu hỏi chất vấn của các đại biểu Quốc hội tại hội trường.

Trong phần trả lời 22 ý kiến chất vấn trên hội trường của các đại biểu Quốc hội đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội, trong đó, nổi lên là các ý kiến xung quanh giải pháp của Chính phủ nhằm đảm bảo chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, hỗ trợ cho đồng bào ngư dân tiếp tục bám biển, làm ăn, sinh sống và chính sách nhằm quản lý việc khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên khoáng sản của đất nước..., Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tập trung vào 3 nội dung chính: Chủ trương của Chính phủ để bảo đảm chủ quyền của ta ở Biển Đông, đảm bảo cho các ngư dân của ta đánh bắt ở Biển Đông; vấn đề liên quan tới Luật Biểu tình; vấn đề liên quan đến công tác quản lý khai thác khoáng sản.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội. Ảnh: Chinhphu.vn

Về đảm bảo chủ quyền ở Biển Đông

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, quán triệt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia của Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (gọi tắt là DOC) đã ký giữa ASEAN và Trung Quốc, căn cứ vào thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển mà Việt Nam và Trung Quốc mới ký trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với những vấn đề trên biển Đông như sau:

Thứ nhất, về đàm phán phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.

Trong vịnh Bắc Bộ, sau nhiều năm đàm phán, Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận phân định ranh giới năm 2000, còn vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, theo Công ước Luật Biển năm 1982 thì Việt Nam và Trung Quốc cần tiến hành đàm phán, giải quyết.

Từ năm 2006, hai nước đã tiến hành đàm phán, tới năm 2009 hai bên quyết định tạm dừng vì lập trường hai bên còn khác xa nhau. Đến đầu năm 2010 hai bên thỏa thuận nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển.Nguyên tắc đó đã được hai bên ký kết nhân dịp Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Trung Quốc vừa qua.

Trên nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển này thì vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ thuộc quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, vì vậy 2 nước cùng nhau đàm phán trên cơ sở Công ước Luật Biển, trên cơ sở DOC và trên cơ sở các nguyên tắc đã thỏa thuận. Để có một giải pháp hợp lý mà hai bên có thể chấp nhận được, chúng ta đang thúc đẩy cùng với Trung Quốc xúc tiến đàm phán giải quyết việc phân định này.

Trong khi chưa đạt được thỏa thuận phân định thì trên thực tế với chừng mực khác nhau, hai bên cũng đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở đường trung tuyến. Cũng trên cơ sở này chúng ta có đối thoại với Trung Quốc để bảo đảm an ninh, an toàn trong việc đi lai, vận chuyển của tàu bè và khai thác nghề cá của đồng bào ta.

Thứ hai, Việt Nam khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự ít nhất là từ thế kỷ XVII. Chúng ta làm chủ khi 2 quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào. Chúng ta đã làm chủ và duy trì chủ quyền trên thực tế. Nhưng đối với Hoàng Sa, năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa khi đó do chính quyền Sài Gòn, tức chính quyền Việt Nam Cộng hòa, quản lý. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên Hợp Quốc can thiệp.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này.

Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này.

Chúng ta đã chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc, phù hợp với Công ước về Luật Biển, phù hợp với Tuyên bố DOC.

Vấn đề thứ ba về quần đảo Trường Sa. Năm 1975 khi thực hiện giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc, Hải quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa, đó là đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca.

Sau đó với chủ quyền của mình, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm 21 đảo, với 33 điểm. Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển này, vùng biển trong phạm vi 200 hải lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta.

Như vậy trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam là quốc gia có số đảo đang đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia và các bên có đòi hỏi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa. Việt Nam cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số đảo mà chúng ta đang đóng giữ với số hộ là 21 hộ, 80 khẩu, trong đó có 6 khẩu cũng đã sinh ra, lớn lên ở các đảo này.

Chủ trương của chúng ta đối với thực hiện chủ quyền đối với Trường Sa, thứ nhất là chúng ta nghiêm túc thực hiện Công ước Luật Biển, nghiêm túc thực hiện Tuyên bố ứng xử của các bên liên quan ở biển Đông (DOC) và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây chúng ta đã ký kết với Trung Quốc.

Việt Nam yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không làm phức tạp thêm làm ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực này.

Thứ hai, chúng ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế-xã hội và cơ sở vật chất, kỹ thuật ở những nơi chúng ta đang có mặt, bao gồm cả đường sá, điện, trạm xá, trường học, nước... để cải thiện đời sống và tăng cường khả năng tự vệ của quân dân đảo Trường Sa.

Thứ ba, Chính phủ đang yêu cầu sơ kết đánh giá lại cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bào ta khai thác thủy, hải sản, vận tải biển trong khu vực này để khuyến khích bà con làm ăn sinh sống, thực hiện chủ quyền trên vùng biển Trường Sa này.

Thứ tư, liên quan tới cam kết quốc tế, chúng ta nghiêm túc thực hiện và yêu cầu các bên liên quan nghiêm túc thực hiện theo đúng Công ước Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố DOC về bảo đảm tự do hàng hải ở Biển Đông, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, trật tự, tự do hàng hải ở Biển Đông. Bởi đây là mong muốn, là lợi ích của tất cả các bên liên quan, không chỉ vì Việt Nam mà là của tất cả các bên liên quan, của các nước khác. Vì Biển Đông là tuyến đường vận tải hàng hóa từ Đông sang Tây, tuyến đường này là tuyến vận tải chiếm 50%-60% tổng lượng hàng hóa vận tải từ Đông sang Tây.

Thủ tướng cũng cho biết, lập trường này của chúng ta được cộng đồng quốc tế ủng hộ, gần đây nhất là tại Hội nghị Cấp cao ASEAN và Cấp cao giữa ASEAN với các đối tác.

Việt Nam cũng kiên quyết khẳng định chủ quyền trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam theo Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982, một cách ngày càng đầy đủ, hiệu quả hơn, Thủ tướng khẳng định.

Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã và sẽ tiếp tục khẳng định chủ quyền để quản lý, thực hiện chủ quyền của đất nước đã có cơ sở từ trong lịch sử và được luật pháp quốc tế công nhận ngày càng đầy đủ và và hiệu quả hơn, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết.

Ảnh: Chinhphu.vn

Thực hiện Điều 69 của Hiến pháp

Trả lời câu hỏi của đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) liên quan đến việc Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét đưa vào nội dung chương trình xây dựng luật của Quốc hội khóa XIII Luật Biểu tình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, theo Điều 69 của Hiến pháp và trong thực tế cuộc sống, đã có nhiều cuộc tụ tập đông người bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị chính quyền, nhưng chúng ta lại chưa có chính sách quản lý vấn đề này. Do đó đã có lúng túng nảy sinh trong quản lý cũng như có việc lợi dụng kích động gây phương hại cho xã hội.

Trước tình hình này, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội khóa XII. Quốc hội khóa XII đã yêu cầu Chính phủ ban hành Nghị định để quản lý, điều chỉnh. Nhưng do hiệu lực pháp luật Nghị định của Chính phủ chưa đáp ứng được yêu cầu của Hiến pháp cũng như thực tế đặt ra, Chính phủ đã kiến nghị Quốc hội xem xét đưa vào chương trình xây dựng pháp luật để xây dựng Luật Biểu tình.

Luật này phù hợp với Hiến pháp, phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam và thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm quyền tự do dân chủ của người dân cũng như sẽ ngăn chặn hành vi xâm hại đến an ninh, trật tự an toàn xã hội .

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết: Chủ trương của Chính phủ luôn trân trọng biểu dương, khen thưởng xứng đáng và khuyến khích với tất cả các hoạt động của mọi người dân vì mục tiêu yêu nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia nhưng đồng thời cũng không hoan nghênh và phải buộc xử lý nghiêm theo pháp luật những hành vi với động cơ lợi dụng danh nghĩa lòng yêu nước, lợi dụng danh nghĩa bảo vệ chủ quyền để thực hiện việc làm gây phương hại cho đất nước.

Kiểm soát xuất khẩu khoáng sản ngay tại nơi sản xuất

Liên quan đến công tác quản lý việc khai thác khoáng sản trong thời gian tới nhằm hạn chế gây ô nhiễm cũng như lãng phí tài nguyên, Thủ tướng cho biết, việc khai thác khoáng sản đã có những kết quả, nhưng nghiêm túc nhìn nhận từ việc quy hoạch, khai thác, chế biến, xuất khẩu khoáng sản vẫn còn nhiều bất cập.

Về vấn đề này, Chính phủ đã có một số giải pháp lớn.

Thứ nhất, yêu cầu chính quyền các địa phương, các cơ quan chức năng tập trung chỉ đạo, ngăn chặn bằng được việc khai thác khoáng sản trái phép gây bức xúc hiện nay. Không chấp nhận việc chính quyền địa phương không biết hoặc thiếu kiểm soát, quản lý nhà nước đối với việc khai thác khoáng sản, trước hết nhằm ngăn chặn việc khai thác tự do, khai thác không phép, khai thác gây ô nhiễm môi trường, gây mất an ninh trật tự.

Thứ hai, Chính phủ chủ trương tạm dừng cấp phép khai thác khoáng sản mới và cho dừng ngay các dự án đang khai thác gây ô nhiễm môi trường, khai thác trái với giấy phép, dự án gây hư hỏng đường sá, dự án làm mất an ninh trật tự, đồng thời rà soát đi liền với bổ sung quy hoạch theo hướng chế biến sâu.

Thứ ba, Chính phủ chủ trương kiểm soát xuất khẩu khoáng sản, xuất khẩu quặng ngay tại các dự án chứ không phải để kiểm soát ở cửa khẩu. Trên cơ sở rà soát quy hoạch, việc cấp phép mới phải đi kèm với dự án khả thi đã được cấp có thẩm quyền thẩm định, bao gồm thẩm định về hiệu quả kinh tế theo hướng chế biến sâu, thẩm định về môi trường, thẩm định về công nghệ, chỉ khi thực sự có hiệu quả, thực sự đảm bảo hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, đảm bảo môi trường và an ninh trật tự xã hội mới được cấp giấy phép.

Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính tăng thêm ngân sách để tiếp tục khảo sát, điều tra, nghiên cứu về trữ lượng khoáng sản (hiện chúng ta mới thăm dò hơn 50% trữ lượng khoáng sản trên đất liền và 1% trên biển).

Ngoài ra, Chính phủ đang tập trung xây dựng chiến lược khoáng sản theo kết luận của Bộ Chính trị và sẽ ban hành sớm các Nghị định để thực hiện Luật Khoáng sản đã được Quốc hội thông qua.

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng báo cáo với Quốc hội, ngoài các nội dung trên, còn những vấn đề khác mà các đại biểu đã chất vấn, vì thời gian ở nghị trường đã hết, Thủ tướng sẽ có trả lời gửi đến các Đoàn đại biểu Quốc hội và sẽ đăng tải trên Cổng TTĐT Chính phủ để các tầng lớp nhân dân được biết.

Nguồn www.chinhphu.vn