1. Các cơ chế giải quyết tranh chấp
Quy định cơ chế giải quyết các tranh chấp về biển là một nội dung quan trọng trong hệ thống luật pháp quốc tế, từ Hiến chương Liên Hợp quốc và cụ thể hoá là Công ước Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982). Công ước Luật biển 1982 vừa là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng hỗ trợ các quốc gia trong việc quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở biển, vừa là công cụ hữu hiệu để các quốc gia giải quyết các tranh chấp phát sinh từ biển.
Công ước Luật biển 1982 nhấn mạnh lấy Hiến chương Liên Hợp quốc làm căn cứ, áp dụng phương thức hoà bình để giải quyết tranh chấp. Điều 279 của Công ước quy định: “Các quốc gia thành viên giải quyết mọi tranh chấp xảy ra giữa họ về việc giải thích hay áp dụng Công ước bằng các phương pháp hòa bình theo đúng Điều 2 khoản 3 của Hiến chương Liên Hợp quốc và, vì mục đích hòa bình này, cần phải tìm ra giải pháp bằng các phương pháp đã được nêu ở Điều 33 khoản 1 của Hiến chương”. Như vậy rất rõ ràng, tôn chỉ lập pháp của Công ước Luật biển 1982 là giải quyết hoà bình những tranh chấp lợi ích biển giữa các nước, các khu vực, bảo vệ hoà bình và ổn định của khu vực.
Công ước cũng thống nhất tôn chỉ của Hiến chương Liên Hợp quốc và các luật pháp quốc tế khác, nhấn mạnh thông qua các phương thức “đàm phán, điều tra, điều đình, hoà giải, trình tự tư pháp, cơ quan khu vực hoặc biện pháp khu vực”… để giải quyết tranh chấp, không chỉ bảo vệ lợi ích biển của các nước mà còn phải đảm bảo hoà bình thế giới.
Công ước Luật biển 1982 đã có những điều khoản nhằm dự liệu một loạt các cách thức giải quyết và từ đó tạo thuận lợi cho các nỗ lực giải quyết của các bên bằng cách này hay cách khác. Công ước nhấn mạnh tính tự chủ của các bên trong giải quyết tranh chấp, “các quốc gia thành viên đi đến thỏa thuận giải quyết vào bất cứ lúc nào, bằng bất kỳ phương pháp hòa bình nào theo sự lựa chọn của mình một vụ tranh chấp xảy ra giữa họ về vấn đề giải thích hay áp dụng Công ước"[1]. Theo cách giải thích thì thoả thuận giữa các bên liên quan có tính quyền uy cao hơn quy định của Công ước, đây chính là không gian rộng mở mà Công ước dành cho các nước để thỏa thuận hữu nghị và có cách giải quyết sáng tạo hợp lý với nhau.
Các bên tranh chấp có thể thoả thuận tự giải quyết các tranh chấp giữa họ về vấn đề giải thích hay áp dụng Công ước thông qua đàm phán, trao đổi quan điểm[2] hoặc hòa giải[3]. Trong trường hợp khi tranh chấp không thể giải quyết được bằng thủ tục hòa giải thì theo yêu cầu của một bên tranh chấp, họ phải buộc lựa chọn một trong bốn khả năng của thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết định bắt buộc[4]. Các quốc gia có thể chọn một hoặc nhiều biện pháp về thủ tục giải quyết bắt buộc như: Toà án quốc tế về luật biển, Tòa án Công lý quốc tế; Tòa trọng tài; Toà trọng tài đặc biệt dành cho các tranh chấp về lĩnh vực nghề cá, bảo vệ và bảo tồn môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển hoặc về hàng hải,v.v…
Vấn đề giải quyết tranh chấp về biển được quy định cụ thể tại phần XV, từ Điều 279 đến Điều 299 của Công ước Luật biển 1982 và các Phụ lục có liên quan, bao gồm các vấn đề: nguyên tắc giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục hoà giải; tổ chức, thẩm quyền, và thủ tục tố tụng của Toà án Quốc tế về Luật biển; thẩm quyền, thủ tục và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài; về việc giải quyết tranh chấp bằng Toà trọng tài đặc biệt,v.v…
Công ước Luật biển 1982 đã dự tính đến việc thành lập một Uỷ ban hoà giải với chức năng “lắng nghe các bên, xem xét các đòi hỏi và ý kiến phản đối của họ và nêu ra các đề nghị nhằm giúp họ đạt tới một giải pháp hòa giải vụ tranh chấp”[5]. Ủy ban hoà giải có thể làm một báo cáo "bao gồm bất kỳ thỏa thuận nào đạt được, và nếu không có thỏa thuận, các kết luận về tất cả các điểm thực tế hay pháp lý có quan hệ tới đối tượng của tranh chấp, cũng như các khuyến nghị xét thấy thích hợp, nhằm đi tới một giải pháp hòa giải, các báo cáo và kết luận không ràng buộc các bên"[6]. Nếu không đạt được một giải pháp nào thông qua hòa giải thì các bên tranh chấp được quyền tự do lựa chọn, dưới hình thức tuyên bố bằng văn bản, một hay nhiều biện pháp: Toà án quốc tế về luật biển, Toà án công lý quốc tế, Toà trọng tài hoặc Toà trọng tài đặc biệt[7].
Công ước Luật biển 1982 cũng quy định "Những ngoại lệ không bắt buộc đối với việc áp dụng các thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết định bắt buộc"[8], có nghĩa là các điều khoản bắt buộc về giải quyết tranh chấp sẽ không được áp dụng cho tất cả mọi cuộc tranh chấp ngay cả giữa các bên tham gia Công ước nếu như khi ký kết, phê chuẩn tham gia Công ước, hoặc ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, một quốc gia có thể tuyên bố bằng văn bản không chấp nhận các thủ tục giải quyết tranh chấp đã được trù định tại Mục 2[9], có liên quan đến một hay nhiều loại tranh chấp sau đây: các tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc phân định ranh giới các vùng biển hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử, miễn là khi một tranh chấp như thế xảy ra sau khi Công ước có hiệu lực; Các vụ tranh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả các hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của Nhà nước được sử dụng cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các vụ tranh chấp liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành hoặc các vụ tranh chấp mà Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, trong khi thi hành các chức năng của mình do Hiến chương Liên Hợp quốc giao phó có trách nhiệm giải quyết, trừ khi Hội đồng Bảo an quyết định xóa vấn đề trong chương trình nghị sự của mình hay yêu cầu các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp của họ bằng các phương pháp đã quy định trong Công ước.
Công ước là một bộ luật áp dụng thích hợp trong phạm vi toàn cầu, nhưng tình hình biển ở các khu vực lại khác nhau, lịch sử, văn hoá khác nhau, các nước có thể tự do, tìm cách giải quyết tranh chấp một cách linh hoạt theo nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại, vừa không đi ngược lại nguyên tắc công bằng, chính nghĩa đã được quốc tế công nhận, cũng vừa đảm bảo được lợi ích của mỗi bên. Trên thực tế, dù là Hiến chương Liên Hợp quốc hay các luật quốc tế hiện đại khác cũng đều nhấn mạnh biện pháp các nước tự giải quyết, tranh chấp khu vực để cho khu vực giải quyết, thể hiện nguyên tắc chủ quyền quốc gia đã được pháp luật quốc tế công nhận.
Việc Công ước Luật biển 1982 thông qua cơ chế giải quyết các tranh chấp về biển giữa các quốc gia là một bước tiến quan trọng trong hệ thống luật pháp quốc tế về biển và là thắng lợi của cuộc đấu tranh vì sự công bằng về quyền và lợi ích trên biển giữa các quốc gia. Để cơ chế giải quyết tranh chấp về biển có hiệu lực, vấn đề quan trọng cốt lõi là các nước liên quan cần có thiện chí và giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng, trên tinh thần tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, tôn trọng và tuân thủ các quy tắc, quy định đã được Công ước Luật biển 1982 nêu ra.
2. Các cơ quan giải quyết tranh chấp
Theo quy định của Công ước, các bên tranh chấp có thể lựa chọn một hoặc một số phương pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp. Khi có một tranh chấp xảy ra giữa các quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước, thông thường thì các bên tranh chấp tiến hành trao đổi quan điểm, thương lượng, hòa giải hay bằng các phương pháp hoà bình khác. Nếu tranh chấp vẫn bế tắc thì theo yêu cầu của một bên tranh chấp, họ được quyền tự do lựa chọn, dưới hình thức tuyên bố bằng văn bản một hay nhiều biện pháp sau đây để giải quyết các tranh chấp:
- Toà án quốc tế về luật biển thành lập theo đúng Phụ lục VI của Công ước;
- Toà án Công lý quốc tế;
- Một Toà trọng tài được thành lập theo đúng Phụ lục VII của Công ước;
- Một toà Trọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng Phụ lục VIII của Công ước để giải quyết các tranh chấp liên quan tới từng lĩnh vực riêng biệt như: việc đánh bắt hải sản, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, hàng hải, nạn ô nhiểm do các tàu thuyền…..
a. Toà án quốc tế về Luật biển
Cuộc bầu cử đầu tiên để thành lập Toà án quốc tế về Luật biển, theo quy định của Công ước, phải được diễn ra chậm nhất là sáu tháng sau ngày Công ước có hiệu lực, tức là ngày 16/5/1995. Tuy nhiên, phải tới ngày 1/8/1996, cuộc bầu cử các quan toà của Toà án quốc tế về Luật biển mới được tổ chức. Điều này cũng có những lý do riêng của nó. Toà án quốc tế về Luật biển đặt trụ sở chính thức tại Hăm buốc thuộc Cộng hoà Liên bang Đức.
Số thành viên của Toà án gồm 21 quan toà độc lập được tuyển chọn trong số các nhân vật nổi tiếng nhất về công bằng và liêm khiết, có năng lực rõ ràng trong lĩnh vực luật biển.
Việc lựa chọn được tiến hành trên các nguyên tắc:
- Thành phần của Toà án phải bảo đảm có sự đại diện của các hệ thống pháp lý chủ yếu của thế giới và một sự phân chia công bằng về mặt địa lý.
- Mỗi quốc gia thành viên có quyền chỉ định nhiều nhất là hai người. Các thành viên của Toà án sẽ được tuyển lựa trên danh sách đề cử. Tuy nhiên, Toà án không thể có quá một công dân của cùng một quốc gia.
- Các thành viên của Toà được bầu bằng bỏ phiếu kín, là những ứng cử viên đạt được số phiếu bầu cao nhất và phải được 2/3 số quốc gia thành viên có mặt và bỏ phiếu.
Theo nguyên tắc độc lập xét xử của thẩm phán, một thành viên của Toà án không thể đảm nhiệm bất kỳ một chức vụ chính trị hay hành chính nào, cũng không được chủ động tham gia hay có liên quan về tài chính trong một hoạt động nào của một xí nghiệp đang tiến hành thăm dò hoặc khai thác các tài nguyên ở biển hay ở đáy biển hoặc một việc sử dụng biển, đáy biển vào mục đích thương mại khác. Thành viên của Toà cũng không được làm những nhiệm vụ đại diện, cố vấn hay luật sư trong bất kỳ một vụ kiện nào.
Một phiên Toà được coi là hợp lệ khi nó có đủ ít nhất 11 thành viên được bầu ngồi xử án. Tuy nhiên, rút kinh nghiệm quá trình xét xử của Toà án pháp lý quốc tế, nhằm giải quyết nhanh các vụ kiện mỗi năm, Toà án lập ra một viện gồm 5 thành viên được bầu để xét xử theo thủ tục rút gọn. Nếu thấy cần thiết, Toà cũng có thể lập ra các viện gồm ít nhất là ba thành viên được bầu để xét xử các loại vụ kiện nhất định. Các phán quyết của một trong số các viện này đều được coi như phán quyết của Toà án quốc tế về Luật biển, chúng đều có tính chất tối hậu mà tất cả các bên trong vụ tranh chấp phải tuân theo.
Về thẩm quyền của Toà án, Toà được để ngỏ cho tất cả các quốc gia thành viên cũng như cho các thực thể không phải là quốc gia thành viên trong tất cả các trường hợp liên quan đến việc quản lý và khai thác Vùng - di sản chung của loài người - hay cho mọi tranh chấp được đưa ra theo mọi thoả thuận khác giao cho Toà án một thẩm quyền được tất cả các bên trong vụ tranh chấp chấp nhận. Theo điều 297, Toà có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng Công ước về việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hay quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với các quyền tự do của các quốc gia khác về hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; đối với nghiên cứu khoa học biển; đối với các tài nguyên sinh vật thuộc vùng đặc quyền kinh tế.
b. Toà án Công lý quốc tế
Toà án Công lý quốc tế là một trong sáu cơ quan chuyên môn chính của Liên Hợp quốc có nhiệm vụ duy trì hoà bình an ninh và phát triển luật quốc tế. Toà án Công lý quốc tế là sự tiếp nối, kế thừa của Pháp viện thường trực quốc tế, Điều 92 của Hiến chương Liên Hợp quốc nêu: “Toà án Công lý quốc tế là cơ quan tài phán chính của Liên Hợp quốc. Toà án hoạt động phù hợp với một Quy chế kèm theo, được xây dựng trên cơ sở Quy chế Pháp viện thường trực quốc tế”. Toà án có chức năng giúp Liên Hợp quốc đạt được một trong những nhiệm vụ cơ bản của mình là giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hoà bình phù hợp với các nguyên tắc của công lý và luật quốc tế. Tòa án Công lý Quốc tế tọa lạc tại cung điện Hòa Bình, thành phố Hague, Hà Lan.
Chỉ có các quốc gia mới có quyền kiện ra Toà án để giải quyết các tranh chấp pháp lý giữa họ. Các thành viên của Liên Hợp quốc là các quốc gia được quyền sử dụng cơ chế của Toà án để giải quyết các tranh chấp pháp lý giữa họ. Quốc gia không phải là thành viên Liên Hợp quốc cũng có thể yêu cầu Toà giúp đỡ với điều kiện trước đó họ phải chấp nhận Quy chế của Toà. Điều này chỉ đạt được khi quốc gia yêu cầu đáp ứng được các điều kiện do Đại hội đồng đặt ra trong từng trường hợp trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng Bảo an.
Thành phần của Toà bao gồm các thẩm phán, các phụ thẩm và thư ký. Các thẩm phán được lựa chọn không căn cứ vào quốc tịch, trong số những nhân vật có phẩm chất đạo đức cao, đáp ứng các yêu cầu đề ra ở nước họ để chỉ định giữ chức vụ xét xử cao nhất, hoặc những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế, là những người hoạt động độc lập (Điều 2 Quy chế của Toà). Các thẩm phán phải được bầu, Toà gồm có 15 thẩm phán, trong đó không có hai người có cùng quốc tịch. Nhiệm kỳ của tòa là 9 năm, không hạn chế việc tái đắc cử miễn là đảm bảo quy tắc không có hai thẩm phán cùng quốc tịch. Một phần ba tòa được bầu lại mỗi 3 năm và trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, mỗi nước luôn có một thẩm phán đại diện trong tòa. Vấn đề được quyết định theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, và mọi phán quyết được đưa ra là phán quyết cuối cùng, không phải phúc thẩm. Để bảo đảm tính công bằng trong xét xử, Quy chế của ICJ có quy định về việc: nếu một bên tham gia tranh tụng có thẩm phán của quốc gia mình là thành viên của Tòa thì bên kia có quyền chọn thêm một thẩm phán ad-hoc. Trường hợp cả hai bên tranh tụng không có thẩm phán của quốc gia mình thì mỗi bên sẽ được chọn thêm một thẩm phán ad-hoc cho mình. Thẩm phán ad-hoc tốt nhất nên chọn một trong những thẩm phán có tên trong danh sách ứng cử thành viên của ICJ. Các thẩm phán ad-hoc trong quá trình xét xử có quyền và nghĩa vụ như thẩm phán thành viên của ICJ.
Những vụ việc được đưa ra ICJ được giải quyết theo luật quốc tế. Luật áp dụng tại Tòa được quy định tại Điều 38 Quy chế Toà án Công lý quốc tế (Statute of International Court of Justice). Theo đó, luật áp dụng gồm:
- Các công ước quốc tế qui định về những nguyên tắc được các bên tranh chấp thừa nhận.
- Các tập quán quốc tế với tính chất là những chứng cứ thực tiễn chung được thừa nhận như những qui phạm pháp luật.
- Các nguyên tắc đã được hình thành từ lâu đời được các quốc gia văn minh thừa nhận.
- Các nghị quyết xét xử (mang tính chất án lệ quốc tế) và các học thuyết của các chuyên gia có uy tín về luật pháp quốc tế của các nước khác nhau cũng có thể được coi là nguồn bổ trợ để xác định các qui phạm pháp luật phục vụ cho công tác xét xử của Tòa án quốc tế.
Các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế chỉ mang ý nghĩa chính trị hơn là có hiệu lực thi hành, và mọi việc đều tùy thuộc vào thiện chí của các nước. Theo lý thuyết, nếu một bên từ chối thi hành phán quyết của tòa, vấn đề có thể được chuyển lên cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc xử lý, nhưng việc này thường lâm vào bế tắc vì năm thành viên thường trực thường xuyên sử dụng quyền phủ quyết.
c. Toà trọng tài
Toà trọng tài được thành lập và hoạt động theo đúng Phụ lục VII của Công ước Luật biển 1982, là cơ quan tài phán quốc tế.
Với điều kiện phải tuân thủ Phần XV của Công ước thì bất kỳ một bên nào có tranh chấp đều có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng thủ tục trọng tài bằng một thông báo viết gửi tới bên kia hoặc các bên kia trong vụ tranh chấp[10].
Tổng Thư ký Liên Hợp quốc lập ra một danh sách các trọng tài. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định bốn trọng tài có kinh nghiệm về những vấn đề biển và nổi tiếng nhất về sự công bằng, năng lực và liêm khiết nhất. Các quốc gia thành viên có thể chỉ định và bổ sung số thành viên của quốc gia mình nếu vì một lý do nào đấy mà chưa đủ bốn thành viên.
Khi cần giải quyết một tranh chấp, Tòa Trọng tài được lập ra với năm thành viên thuộc danh dách trọng tài do Tổng Thư ký Liên Hợp quốc lập: Bên nguyên cử một thành viên, bên bị trong vụ tranh chấp cử một thành viên, ba thành viên khác được các bên thỏa thuận cử ra đảm bảo là công dân của quốc gia thứ ba, trừ khi các bên có thỏa thuận khác; Các bên cử chánh tòa trong số ba thành viên này.
Các bên tham gia tranh chấp tạo điều kiện dễ dàng cho Tòa trọng tài thực hiện nhiệm vụ của mình, và đặc biệt là, theo đúng pháp luật của mình và bằng tất cả các phương tiện thuộc quyền sử dụng của mình.
Các quyết định của Tòa trọng tài được thông qua theo đa số các thành viên của tòa. Sự vắng mặt hoặc bỏ phiếu trắng của dưới một nửa số thành viên không cản trở tòa ra quyết định. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau, phiếu của chánh tòa là phiếu quyết định.
Bản án của Tòa trọng tài có tính chất tối hậu và không được kháng cáo, trừ khi các bên trong vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trước về một thủ tục kháng cáo.
d. Toà trọng tài đặc biệt
Toà trọng tài đặc biệt được quy định tại Phụ lục VIII của Công ước luật biển 1982. Toà trọng tài đặc biệt được lập ra với nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp trong từng lĩnh vực riêng biệt liên quan đến việc giải thích hay áp dụng các điều khoản của công ước Luật biển liên quan đến: việc đánh bắt hải sản; việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; việc nghiên cứu khoa học biển hoặc hàng hải, kể cả nạn ô nhiễm do các tàu thuyền hay do nhấn chìm. Các bên có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết theo thủ tục trọng tài đặc biệt bằng thông báo viết gửi tới bên kia hoặc các bên trong vụ tranh chấp.
Toà trọng tài đặc biệt này có sự đóng góp đáng kể của các tổ chức quốc tế có thẩm quyền chuyên môn trong từng lĩnh vực, như Tổ chức Lương thực và nông nghiệp của Liên Hợp quốc; Chương trình của Liên hợp quốc về môi trường; Ủy ban Hải dương học liên chính phủ; Tổ chức hàng hải quốc tế … lập ra một danh sách các chuyên viên có năng lực được xác minh và thừa nhận chung về pháp lý, khoa học hay kỹ thuật trong các lĩnh vực này và là những người nổi tiếng công minh, liêm khiết nhất. Mỗi quốc gia thành viên có thể chỉ định hai chuyên gia tham gia mỗi lĩnh vực này.
Khi có tranh chấp phát sinh, dựa trên danh sách các chuyên viên đã được lập, Tòa trọng tài đặc biệt sẽ được thành lập, gồm 05 thành viên. Bên nguyên cử hai thành viện được lựa chọn tùy trong danh sách các chuyên viên liên quan đến nội dung của vụ tranh chấp, một trong hai người này có thể là công dân của nước đó. Bên bị trong vụ tranh chấp, trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo cử ra hai thành viên tùy chọn trong danh sách các chuyên viên liên quan đến nội dung của vụ tranh chấp, một trong hai người này có thể là công dân của nước đó. Nếu bên bị không cử người trong thời hạn này, thì bên nguyên có thể trong hai tuần sau khi hết hạn, yêu cầu tiến hành cử người theo đúng quy định. Chánh án Tòa trọng tài đặc biệt do các bên thoả thuận lựa chọn tùy trên danh sách thích hợp và là công dân của một nước thứ ba, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
Nguồn Ủy ban Biên giới quốc gia - Bộ Ngoại giao
1]. Điều 280, Công ước Luật biển 1982.
[2] Điều 283, Sđd.
[3]. Điều 284,Sđd.
[4]. Mục 2, Phần XV, Sđd.
[5]. Điều 6, Phụ Lục V, Sđd.
[6]. Điều 7, Phụ lục V, Sđd.
[7]. Điều 287, Sđd.
[8]. Điều 298,Sđd.
[9]. Mục 2. Các thủ tục bắt buộc dẫn tới các quyết định bắt buộc, Điều 286, Sđd.
[10]. Điều 1, Phụ lục VII, Sđd.