Phát triển logistics vùng kinh tế trọng điểm phía Nam

Khơi thông điểm nghẽn kìm chế sự phát triển logistics của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sẽ tạo nền tảng thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hoá cho cả khu vực.

Đây là nhận định của các chuyên gia tại Toạ đàm “Phát triển logistics vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa” do Tạp chí Hải quan tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh, ngày 6/4.

Thiếu tính kết nối

Bà Vũ Thị Ánh Hồng, Tổng biên tập Tạp chí Hải quan cho biết, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Tây Ninh, Long An và Tiền Giang. Đây là một trong những vùng kinh tế năng động nhất. Hoạt động logistics vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong những năm qua đã có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế của vùng cũng như cả nước.

Kho bãi chứa container tại Cảng Cát Lái, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu: Hồng Đạt/TTXVN

Tuy vậy, vẫn còn những "điểm nghẽn" về cơ sở hạ tầng, vốn đầu tư, sự liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất - xuất nhập khẩu và doanh nghiệp logistics chưa hiệu quả, hay bất cập về cơ chế chính sách… khiến logistics trong khu vực chưa thể phát triển tương xứng với tiềm năng và nhu cầu.

Đánh giá về thực trạng logistics vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, ông Đặng Vũ Thành, Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam cho biết, Chính phủ đã có định hướng phát triển đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là tập trung vào sản xuất, lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử; công nghiệp chế biến chế tạo; kinh tế số; tài chính ngân hàng; bất động sản. Do đó việc phát triển ngành logistics cần đi đôi và song hành với sự phát triển của khu vực và đáp ứng cho hoạt động giao nhận vận chuyển xuyên suốt.

Trong đề án phát triển ngành logistics trên địa bàn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Tp. Hồ Chí Minh xây dựng chiến lược phát triển logistics trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn của thành phố, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GRDP; nâng cao vai trò đầu mối giao lưu hàng hóa trong nước và kết nối thị trường trong nước với thị trường quốc tế; góp phần kéo giảm tỷ lệ chi phí logistics cả nước so với GDP quốc gia đến năm 2025 khoảng 10 đến 15%. Tuy nhiên, hạ tầng giao thông tại Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và cả vùng Ðông Nam bộ nói chung vẫn đang thiếu tính kết nối, thiếu đồng bộ, gây tắc nghẽn trong vận chuyển hàng hóa, làm tăng chi phí về logistics của các doanh nghiệp.

Phân tích sâu hơn về các hạn chế, ông Đỗ Xuân Minh, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ logistics - Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2022, cả nước có hơn 7.000 doanh nghiệp mới thành lập trong lĩnh vực vận tải, kho bãi, tăng 17% so với năm 2021. Tính chung cả nước có hơn 30.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực logistics; trong đó, hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics 3PL. Tỷ lệ doanh nghiệp logistics trong nước chiếm hơn 80%, tuy nhiên chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài vì doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Theo ông Đỗ Xuân Minh, tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) giai đoạn 2022 - 2027 của thị trường logistics Việt Nam được dự báo đạt mức 5,5% cho thấy sức hấp dẫn của ngành này trong tổng thể nền kinh tế. Do đó, dư địa cho phát triển logistics tại Việt Nam còn rất lớn. Tuy nhiên, việc phát triển logistics tại Việt Nam nói chung và khu vực miền Nam nói riêng đang gặp một số khó khăn về cơ sở hạ tầng, từ cảng, đường kết nối đế hệ thống kho bãi.

Tại khu vực phía Nam, mặc dù đảm nhận 45% tổng khối lượng hàng hóa và hơn 60% khối lượng hàng container của cả nước thông qua 2 hệ thống cảng Tp. Hồ Chí Minh và Bà Rịa – Vũng Tàu nhưng đường bộ vẫn là phương thức vận tải chủ yếu. Hệ thống giao thông quá tải, thiếu đường cao tốc gây tình trạng tắc nghẽn, gia tăng chi phí nhân lực, vật lực. Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long dù có hệ thống sông thuận lợi cho phát triển phương thức vận tải thủy nội địa, nhưng thực tế, hàng hóa tại vẫn phải tập trung về các cảng Đông Nam Bộ để xuất khẩu, gây tốn kém, mất thời gian và phức tạp.

Cần đầu tư trọng điểm

Để ngành logistics phát huy đúng với tiềm năng, thế mạnh ông Đặng Vũ Thành cho rằng, trong bối cảnh nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp thì không nên đầu tư dàn trải nhiều dự án mà nên ưu tiên xây dựng trước các công trình giao thông trọng điểm, huyết mạch như tuyến cao tốc Bến Lức - Long Thành; Tp.Hồ Chí Minh - Mộc Bài hay các dự án kết nối cửa ngõ với 13 tỉnh, thành phố miền Tây Nam bộ và vùng Ðông Nam bộ, các tuyến đường vào các cảng biển. Đồng thời, cần sớm có các dự án nạo vét hệ thống kênh rạch ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long để khai thác hiệu quả phương thức vận tải đường thủy và kết nối hoạt động xuất khẩu trực tiếp từ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Việt Nam thu hút đầu tư phát triển hạ tầng logistics. Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN

Về nguồn lực, theo ông Đặng Vũ Thành, Chính phủ cần có chính sách kêu gọi và hỗ trợ đầu tư trung tâm logistics như ưu đãi thuế, bảo lãnh khoản vay, bảo hiểm tín dụng, tài trợ lãi suất thấp, quy hoạch các trung tâm logistics đồng bộ gắn với quy hoạch chung, các mục tiêu phát triển của địa phương và cả vùng kinh tế.

Đối với mục tiêu xây dựng Bà Rịa - Vũng Tàu thành trung tâm logistics của cả khu vực cần tập trung đầu tư các tuyến giao thông huyết mạch đảm bảo cho sự luân chuyển hàng hoá và hoạt động logistics được thuận lợi, nhanh chóng, giảm chi phí cho doanh nghiệp; tăng cường mở rộng các tuyến đường thuỷ, nạo vét kênh rạch để giảm tải cho đường bộ, đón tàu lớn vào các khu vực làm hàng. Đẩy nhanh việc thực hiện quy hoạch các trung tâm logistics, cảng cạn kết nối vào thực tế để nhanh chóng hình thành khu vực vệ tinh cho các cảng luân chuyển hàng hoá nhanh hơn.

Trong khi đó, ông Đỗ Xuân Minh cho rằng, cần phát triển hệ sinh thái cảng – logistics kết nối xuyên suốt thông qua chuỗi dịch vụ logistics đa phương thức bằng đường bộ, đường thủy nội địa, đường biển và cả đường sắt. Hiện tại, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn đang tập trung cho giải pháp kết nối trực tiếp Đồng bằng sông Cửu Long, Bình Dương, Đồng Nai - Cái Mép bằng cách tận dụng được ưu thế về kết nối đường thủy từ các cảng, ICD và giảm áp lực hạ tầng đường bộ kết nối đến Tp. Hồ Chí Minh, tăng tính linh hoạt trong khâu kết nối vận chuyển, đồng thời hỗ trợ khách hàng tối đa khi có phát sinh về thủ tục hải quan, thanh lý, trễ giờ...

Bên cạnh đó, Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn cũng xây dựng những giải pháp mới với dịch vụ kết nối đa phương thức từ Đồng bằng sông Cửu Long đi Viêng Chăn thông qua tàu biển nội địa của Tân Cảng Shipping, ghé cảng Việt Lào, đáp ứng nhu cầu mở rộng, cùng thâm nhập vào thêm các thị trường mới và tiềm năng cho hàng hóa từ Đồng bằng sông Cửu Long.

Ở góc độ cơ quan hải quan, ông Nguyễn Hữu Nghiệp, Phó Cục trưởng Cục Hải quan Tp. Hồ Chí Minh cho biết, thời gian qua, Cục Hải quan Tp. Hồ Chí Minh luôn nhận thức về vai trò và trách nhiệm trong việc phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ logistics của các doanh nghiệp thông qua các hoạt động cải cách thủ tục hành chính về hải quan, tạo thuận lợi thương mại.

Việc cắt giảm thời gian thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu, giảm chi phí làm thủ tục hải quan cho doanh nghiệp, góp phần khai thác tối đa năng lực của các cảng biển, kho bãi, địa điểm nói riêng và cơ sở hạ tầng giao thông nói chung góp phần đáng kể vào việc giảm tình trạng ùn tắc hàng hóa tại các cảng biển, cảng hàng không.

Từ năm 2019 đến nay, Cục Hải quan Tp. Hồ Chí Minh đã chủ trì xây dựng và đưa vào thực hiện Đề án Tạo thuận lợi thương mại: thủ tục hải quan trong hoạt động logistics và chống ùn tắc tại cảng Cát Lái (Đề án 2318). Đây là một trong những chương trình đột phá của Cục Hải quan Tp.Hồ Chí minh nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, giảm thời gian thông quan và góp phần phát triển hoạt động logistics tại thành phố.

Theo TTXVN/Báo Tin tức