Khi bị hạ oxy máu, nếu không được hỗ trợ thở oxy kịp thời có thể gây nguy hiểm tính mạng người bệnh. Nếu không có máy đo thì ta có thể dựa vào các dấu hiệu trên người bệnh để phát hiện tình trạng thiếu oxy máu: Cảm giác hụt hơi, thiếu không khí, há miệng ra thở; nhịp thở trên 25 lần/phút, mạch trên 100 lần/phút; da nhợt nhạt, môi và đầu ngón chân tay tím; cảm giác hốt hoảng, vật vã. Nặng hơn nữa thì đi vào li bì hôn mê.
Nếu thấy người bệnh có một vài dấu hiệu trên hoặc SPO2 giảm dưới 94 thì ngay lập tức cho người bệnh thở oxy và liên hệ với nhân viên y tế hỗ trợ.
Các nguồn khí oxy
Bình oxy: Chứa oxy được nạp ở nhà máy dưới áp suất cao 150 Bar (gấp 150 lần áp suất khí quyển, hay nói cách khác oxy được nén lại 150 lần). Bình dùng tại nhà thể tích thường là 10lít, 14lít. Bình to dùng trong bệnh viện cỡ 40 lít.
Máy tạo oxy: Các máy nhỏ dùng tại nhà, tốc độ thường có 2 loại: loại nhỏ 3 lít/ph, loại lớn 5 lít/ph. Đây thực chất là máy lọc oxy, trong không khí chúng ta đang thở vốn đã có 21% là oxy. Máy này sẽ bơm không khí qua các quả lọc có hạt Zeolite, quả lọc này giữ khí ni tơ lại, chỉ cho oxy đi qua, tạo nên oxy tinh khiết.
Oxy hóa lỏng: Đây là nguồn oxy sản xuất công nghiệp, bằng cách hóa lỏng không khí để tách riêng oxy ra. Oxy hóa lỏng được cung cấp bằng xe bồn cho các bệnh viện lớn.
Oxy lỏng chứa trong các tháp lớn để ở ngoài trời và được gia nhiệt từ từ để trở thành oxy khí, đi theo các đường ống dẫn đến các phòng cấp cứu. Oxy lỏng có giá thành rất rẻ, cung cấp tập trung trong bệnh viện.
B.H (Theo Báo SK&ĐS)