Mô tả cây
Rau sam là một loài cỏ sống hàng năm, có nhiều cành mẫm, nhẵn. Thân có màu đỏ nhạt, lá dài 10 đến 30cm. Lá hình bầu dục dài, phía đáy lá hơi thót lại, không cuống, phiến lá dày, mặt bóng, dài 2cm, rộng 8-14cm. Những lá phía trên họp thành một thứ tổng bao quanh các hoa. Hoa mọc ở đầu cành, màu vàng, không có cuống. Quả nang bình cầu, mở bằng 1 nắp. Trong có chứa nhiều hạt màu đen bóng.
Phân bố, thu hái và chế biến
Rau sam mọc hoang ở khắp những nơi ẩm ướt của nước ta, còn thấy mọc ở nhiều nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Châu Âu. Tại nhiều nước Châu Âu, nhất là ở Pháp, người ta trồng làm rau ăn, vị chua dễ chịu gọi là pourpie. Ở nước ta chưa ai đặt vấn đề trồng. Thu hái hoàn toàn dựa vào cây mọc hoang. Vào tháng 5 đến 7 (mùa hè và thu), người ta hái cả cây, có khi cắt bỏ rễ rồi rửa sạch, dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô, ở nước ta thường dùng tươi. Một số nơi dùng khô. Tại Trung Quốc, rau sam tươi hái về, lập tức nhúng nhanh vào nước sôi (có thể đổ), rồi lấy ra ngay, rửa nước cho sạch nhớt rồi mới phơi hay sấy khô. Khi dùng hoàn toàn không phải chế biến gì khác.
Thành phần hóa học
Rau sam có 6,49% hydrat cacbon, 0,5% chất béo, 1,8% chất ptotit, 2,23% tro. Một tài liệu khác (Trung Quốc khoa học xã hội Trung dược tân biên trích dẫn) thì có vitamin C, men ureaza, 0,4% chất béo, 1,6% tro.
Theo B.E. Read, (1940, Chin. J . Physiolo.15 (1): 9-17) thì mỗi 100g rau sam tươi có 100gama vitamin B1, mỗi 100gam khô có 40gama vitamin B1.
Theo Viện vệ sinh Hà Nội (1972) rau sam Việt Nam có 1,4% protit, 3% gluxit, 1,3% tro, 85mg% canxi, 5,6mg% P, 1,5mg% sắt, 26mg% vitamin C, 0,32mg% caroten, o,o3mg% vitamin B1, 0,11mg% vitamin B2 và 0,7mg% vitamin PP.
Tác dụng dược lý
1. Tác dụng trên mạch máu
Theo Hồ Thành Nho (Chiến thời y chỉnh, 12-Trung Văn, Khâu Trần Ba Trích), rau sam có tác dụng làm co nhỏ mạch máu. Nguồn gốc tác dụng này do thần kinh trung ương và ngoại vi.
2. Tác dụng lên vi trùng
a. Theo báo cáo của Sở Y học dự phòng của Trung Quốc (Luận văn thứ 8 tháng 5-19430 nước sắc rau sam 25% có tác dụng ức chế sự phát dục của vi trùng lỵ, Shinga-Kruse, vi trùng lỵ hình Y. Đối với vi trùng lỵ hình Y, tác dụng rất nhạy, từ nồng độ 10% trở lên đã có tác dụng.
- Đối với vi trùng thương hàn, nước sắc rau sam 25% cũng tỏ ra tác dụng ức chế sự phát dục và tiêu diệt, nhưng thời gian so với vi trùng lỵ có kéo dài hơn.
b. Năm 1953, theo thực vật học báo, [2(2):312-325] nghiên cứu tác dụng kháng sinh của 102 vị thuốc đông y, Vương Nhạc và cộng tác đã nhận thấy dịch chiết rau sam bằng cồn etylic có tác dụng rõ rệt trên trực khuẩn coli, trực trùng lỵ và trực trùng thương hàn.
3. Tác dụng lâm sàng
Rau sam được thí nghiệm chữa có kết quả đối với lỵ trực trùng cấp tính (Viện nghiên cứu đông y 1960 chữa 54 trường hợp, khỏi 53). Ngoài ra còn còn có tác dụng chữa ho lâu ngày, ho lao (Thượng Hải trung y dược tạp chí 1959, 3:40). Dùng và uống chữa mụn nhọt, sưng đau, trĩ (Trung Hoa ngoại khoa tạp chí 1959, 7:130-132).
Công dụng và liều dùng
Rau sam được dùng trong nhân dân niều vùng ở nước ta và nhiều nước khác làm rau ăn: Nhân dân Châu Âu ăn rau này thay xà lách, ăn sống hoặc nấu chín. Nhân dân Việt Nam và Trung Quốc dùng rau sam làm thuốc chữa lỵ, trực trùng, giã nát đắp mụn nhọt, làm thuốc lợi tiểu tiện, tẩy giun kim.
Tính chất của rau sam theo các tài liệu cổ: Vị chua, tính hàn, không có độc, vào ba kinh: tâm, can và tỳ . Trị huyết lỵ (lỵ ra máu), tiểu tiện đục, trừ giun sán, dùng trị ác thương, đơn độc. Phàm những người tỳ vị hư hàn, phân lỏng chớ nên dùng.
Đơn thuốc có rau sam
- Chữa lỵ cho trẻ em: Rau sam tươi 250g(nếu khô 50g), nước 600ml, sắc còn 100ml, chỉ dùng uống trong ngày độ tuổi: nửa tuổi đến 1 tuổi uống 10ml/lần, ngày uống 4 lần, 2 tuổi trở lên mỗi tuổi tăng thêm 5ml/ lần, ngày uống 4 lần.
- Trừ giun: Rau sam 50g, rửa sạch thêm ít muối giã nát, vắt lấy nước, thêm ít đường vào cho dễ uống. Uống liên tiếp 3-5 ngày.
- Trẻ em chốc đầu: Giã nát rau sam tươi, thêm nước, sắc đặc bôi lên hay đốt ra than , hòa với mỡ lợn, bôi vào.
- Đái ra máu: Rau sam nấu canh ăn hằng ngày liên tục 3-7 hôm.
Đức Doãn (Theo Cây thuốc Việt Nam)