Công tác vận động nhân dân của Đảng qua gần 30 năm đổi mới: Những kết quả chủ yếu, bài học kinh nghiệm và vấn đề đặt ra

Công tác vận động nhân dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng ta, có ý nghĩa sống còn đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong suốt gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn coi trọng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác này, chăm lo củng cố mối quan hệ giữa Đảng với Nhân dân.

Nhờ làm tốt công tác vận động nhân dân đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân.

Kết quả công tác vận động nhân dân của Đảng

1- Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác vận động nhân dân được đổi mới.

Bước vào thời kỳ đầu đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã kịp thời ban hành Nghị quyết số 8B-NQ/TW, ngày 27-3-1990, về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Nghị quyết đã xác định rõ bốn quan điểm và những giải pháp chủ yếu, nhằm đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận (vận động nhân dân) phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Những quan điểm của Đảng trong Nghị quyết số 8B-NQ/TW có ý nghĩa sâu sắc, là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đối với công tác vận động nhân dân trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Quán triệt Nghị quyết của Đảng về công tác này, các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên đã thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình hình đời sống nhân dân, thông qua việc phân công đồng chí chủ chốt trong cấp ủy chuyên trách công tác quần chúng; phân công đảng viên giúp đỡ quần chúng, nhân dân và có quy định đảng viên thực hiện nghĩa vụ nơi cư trú.

Từ Đại hội VII đến Đại hội XI, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo, chăm lo đến từng giai cấp, giai tầng xã hội, từng lĩnh vực công tác vận động nhân dân của Đảng, nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, như nghị quyết về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; công tác dân tộc; công tác tôn giáo; phụ nữ; thanh niên; giai cấp công nhân; về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; trí thức; doanh nhân; cựu chiến binh, người cao tuổi... Và gần đây, Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã thể hiện rõ, sâu sắc những quan điểm, đường lối của Đảng về vai trò của nhân dân, của công tác vận động nhân dân. Có thể thấy, các chủ trương, chính sách về công tác vận động nhân dân đều hướng vào chăm lo đời sống nhân dân, an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo; chăm lo đến quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy trách nhiệm, nghĩa vụ của nhân dân.

Đảng, Nhà nước luôn coi trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Nhiều đề xuất, sáng kiến của nhân dân trong thực tiễn cuộc sống được Đảng tiếp thu, vận dụng để đưa ra những quyết định quan trọng, có tính chiến lược ở những thời điểm khó khăn, thách thức đối với đất nước. Từ thực tiễn cuộc sống của nhân dân, trí tuệ, sáng tạo của nhân dân đã khởi nguồn cho Đảng tiến hành, thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới đất nước. Trong quá trình đổi mới, Đảng luôn coi trọng công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đảng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng.

2- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động.

Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các đoàn thể nhân dân có các hình thức tập hợp nhân dân ngày càng đa dạng, phong phú, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia các hội, tổ chức, các câu lạc bộ theo sở thích, ngành nghề, theo giới, lứa tuổi... Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tập hợp, quy tụ các cá nhân tiêu biểu trong dân tộc, tôn giáo, nhân sĩ, trí thức, doanh nhân... tham gia đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân, MTTQ, các đoàn thể nhân dân. Thành phần, cơ cấu ban chấp hành, đoàn chủ tịch của các tổ chức được mở rộng. Thực hiện chức năng giám sát, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội tiến hành giám sát các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, đảng viên, công chức và đã triển khai thí điểm thực hiện “Quy chế Mặt trận Tổ quốc giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư”. Hiện nay, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội đã triển khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XI về Quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Hoạt động của ban thanh tra nhân dân góp phần tích cực vào giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giám sát đầu tư cộng đồng, nâng cao hiệu quả đầu tư ở cộng đồng, chống tham nhũng, lãng phí.

Công tác phối hợp giữa MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội với Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các bộ, ngành ở Trung ương và chính quyền địa phương trong vận động nhân dân được triển khai đồng bộ, thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; từng bước khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, tăng cường hướng về cơ sở. Nội dung, phương thức hoạt động ngày càng thiết thực, hiệu quả, gắn với nhiệm vụ chính trị của Đảng, bước đầu đáp ứng quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đã thực sự giữ vai trò làm nòng cốt trong tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3- Công tác vận động nhân dân của các cơ quan nhà nước ngày càng được chú trọng hơn.

Các cơ quan chính quyền các cấp điều hành công việc theo chức năng quản lý nhà nước, đồng thời làm tốt công tác vận động nhân dân tạo điều kiện để nhân dân tham gia xây dựng, củng cố chính quyền. Nhà nước đã quan tâm, tập trung xây dựng hệ thống pháp luật, chế độ chính sách về các quyền và nghĩa vụ của công dân. Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg, ngày 21-9-2000, của Thủ tướng Chính phủ, về tăng cường công tác dân vận, là văn bản tiếp tục cụ thể hóa thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác vận động nhân dân, được triển khai tích cực ở các cấp, đạt nhiều kết quả.

Nhiều chủ trương, chính sách và quy định của cơ quan nhà nước trước khi ban hành đã có sự tham gia đóng góp ý kiến của cán bộ, công chức và nhân dân, tháo gỡ được một số vướng mắc trong mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân và doanh nghiệp về các lĩnh vực quản lý đất đai, quản lý quy hoạch xây dựng, nhà ở, thuế và đầu tư kinh doanh.

Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức đối với người lao động và nhân dân được nâng lên. Cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức hằng năm đã xây dựng chương trình, kế hoạch đi cơ sở, gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân; quan hệ giao tiếp, thái độ ứng xử với nhân dân có chuyển biến tích cực, hạn chế tình trạng hách dịch, cửa quyền gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Tiến trình cải cách hành chính được đẩy nhanh, bảo đảm định hướng dân chủ, công khai, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện; góp phần làm trong sạch bộ máy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước; hạn chế cơ chế “xin, cho”, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ hành chính. Đặc biệt, chương trình truyền hình “Dân hỏi, Bộ trưởng trả lời” có sự tham gia tích cực của các thành viên Chính phủ là một bước tiến mới trong công tác vận động nhân dân của các cơ quan nhà nước.

Các bộ, ngành và chính quyền các cấp đã quan tâm đến việc ban hành các quy định nhằm củng cố, kiện toàn hệ thống các cơ quan nhà nước theo hướng gần nhân dân, phục vụ nhân dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Nhiều cơ quan, đơn vị đã chỉ đạo và tổ chức rà soát, bổ sung hoặc ban hành mới quy chế làm việc của cơ quan, quy chế văn hóa công sở, quy chế ứng xử của cán bộ, công chức theo hướng: “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin” cùng với tác phong: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Các cấp ủy, MTTQ và chính quyền các cấp đã tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân, người lao động trong các thành phần kinh tế tham gia công tác xây dựng chính quyền, lựa chọn và đánh giá năng lực, phẩm chất đạo đức và uy tín của cán bộ lãnh đạo, quản lý thông qua công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu và phê chuẩn. Các đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp đã thực hiện nghiêm trách nhiệm trước cử tri trong việc tiếp nhận, chuyển ý kiến của cử tri đến người đứng đầu các bộ, ngành và chính quyền các cấp giải quyết và trả lời kiến nghị của cử tri; đồng thời thúc đẩy các cơ quan có trách nhiệm giải quyết các kiến nghị chính đáng, hợp pháp của cử tri.

Các địa phương, các bộ, ngành đã tiếp nhận và giải quyết tích cực đơn, thư thuộc thẩm quyền, nhất là đơn, thư khiếu nại, tố cáo; chỉ đạo giải quyết các vụ, việc tham nhũng, tiêu cực, lãng phí và thông báo kết luận thanh tra để nhân dân giám sát. Có địa phương còn tổ chức và yêu cầu cán bộ, công chức làm sai quy định phải công khai xin lỗi trước nhân dân. Từ đó, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã có bước chuyển biến tiến bộ. Đối với cấp xã, phường, thị trấn, việc xây dựng và thực hiện Quy chế được triển khai sâu rộng. Hầu hết các xã, phường, thị trấn đã xây dựng và ban hành các quy chế, quy định; quy ước, hương ước ở thôn, bản, tổ dân phố bảo đảm các điều kiện để nhân dân biết, tham gia bàn, quyết định và giám sát các hoạt động ở cơ sở. Đối với cơ quan, đơn vị sự nghiệp, việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã gắn với chương trình cải cách hành chính để chỉ đạo sắp xếp tổ chức, bộ máy, luân chuyển cán bộ; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ; rà soát, loại bỏ các văn bản trái pháp luật, các thủ tục phiền hà, triển khai thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”; công khai đường dây “nóng”; ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng tiêu chuẩn ISO, hiện đại hóa dịch vụ công; sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy định; xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng, cán bộ, công chức trong việc thực hiện các quy chế nội bộ và công khai, dân chủ với nhân dân. Đối với các loại hình doanh nghiệp, các bộ, ngành ở Trung ương, các địa phương đã ban hành văn bản chỉ đạo xây dựng quy chế thực hiện dân chủ trong doanh nghiệp; tổ chức ký thỏa ước lao động; sửa đổi, bổ sung các nội quy, quy chế, quy định phù hợp với tình hình mới.

4- Phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không ngừng được đẩy mạnh.

Trong thời kỳ đổi mới, phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân được Đảng lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, đã huy động cả hệ thống chính trị và mọi nguồn lực trong xã hội tham gia, làm chuyển biến mạnh mẽ tình hình kinh tế - xã hội; dân chủ trong đời sống xã hội được mở rộng và phát huy; công tác quốc phòng, an ninh được tăng cường.

Các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước của nhân dân được đẩy mạnh. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”; phong trào xóa đói, giảm nghèo đã huy động các nguồn lực xã hội giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo, nhất là các xã thuộc diện nghèo, các xã vùng cao, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các phong trào thi đua “Dân vận khéo”, “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”; giúp nhau phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất; giải quyết việc làm đã góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong giai đoạn bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhân dân cả nước đã hưởng ứng các phong trào: “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng... đã góp phần quan trọng thúc đẩy sản xuất, kiềm chế lạm phát, nâng cao đời sống nhân dân.

Cùng với các phong trào phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, các hoạt động tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh được hưởng ứng tích cực. Các hoạt động đều hướng mạnh về cơ sở, bám sát địa bàn, bám dân, tăng cường đối thoại trực tiếp với nhân dân, nắm bắt “trúng”, “đúng” tâm tư, nguyện vọng và những đề xuất, kiến nghị chính đáng của nhân dân để tham mưu với Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền các cấp có những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, nhất là các vấn đề có ảnh hưởng liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, thu nhập của nhân dân. Nhân dân tích cực tham gia, hưởng ứng Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo được phong trào sâu rộng và sức lan tỏa rộng lớn, nêu gương những việc làm tốt, những tấm gương điển hình, việc làm hay; đấu tranh với tiêu cực, quan liêu, tham nhũng; góp phần xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh. Các phong trào giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đẩy mạnh, nhất là trên các địa bàn xung yếu, trọng điểm; bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo; tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; chăm sóc các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, tìm kiếm hài cốt và quy tập mộ liệt sĩ; không ngừng củng cố và tăng cường “thế trận lòng dân”.

Tuy nhiên, công tác vận động nhân dân cũng còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Việc xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác này còn chưa kịp thời, hiệu quả thấp; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân... để có chủ trương, chính sách phù hợp. Việc thể chế hóa chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác vận động nhân dân chưa kịp thời, nhất là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết kịp thời; quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những nguyên nhân chủ quan. Một số cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác vận động nhân dân; chưa thấy hết trách nhiệm và chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo, chỉ đạo công tác này. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác vận động nhân dân chậm được đổi mới, chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn.

Những kinh nghiệm về công tác vận động nhân dân

Bài học kinh nghiệm lớn trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, có liên quan trực tiếp đến công tác vận động nhân dân, đã được Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội VI - Đại hội đánh dấu sự nghiệp đổi mới: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đảng ta không có mục đích nào khác là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Quần chúng là người làm nên lịch sử”. Từ thực tiễn cách mạng phong phú, gồm cả thành công và những hạn chế, Đảng ta đã rút ra những bài học về công tác vận động nhân dân thời kỳ đổi mới như sau:

Một là, công tác vận động nhân dân luôn dựa trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác vận động nhân dân phải gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; bám sát thực tiễn, luôn dựa vào lực lượng và sức mạnh của nhân dân; mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, thực sự vì nhân dân và do nhân dân.

Hai là, công tác vận động nhân dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, MTTQ, đoàn thể làm nòng cốt, tham mưu về công tác vận động, tập hợp nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Ba là, thường xuyên củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội quần chúng không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và nâng cao chất lượng, hiệu quả tập hợp nhân dân, khắc phục tình trạng hành chính, quan liêu, hình thức; thực sự là người đại diện cho quyền lợi, nguyện vọng của đoàn viên, hội viên và nhân dân.

Bốn là, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, bố trí, sắp xếp, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách đủ sức làm tham mưu cho Đảng về công tác vận động nhân dân; đào tạo, bồi dưỡng để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang trở thành một cán bộ dân vận của Đảng.

Những vấn đề đang đặt ra với công tác vận động nhân dân của Đảng

Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế cơ bản trong tình hình thế giới hiện nay, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng xung đột về tôn giáo, sắc tộc; ly khai, chiến tranh cục bộ; bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ; khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt. Sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ thông tin toàn cầu, đã và đang diễn ra từng ngày, từng giờ tác động đến mọi hoạt động xã hội.

Kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, một số mặt tiêu cực tiếp tục tác động, ảnh hưởng ngày càng sâu sắc hơn, như phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Do tác động của suy thoái, khủng hoảng kinh tế thế giới thời gian qua, nền kinh tế nước ta tuy đã có chiều hướng hồi phục tích cực, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều khó khăn; công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế đang đòi hỏi phải quyết liệt hơn. Sự khác nhau về mức sống, lối sống, nhận thức của các giai tầng xã hội; sự biến động về cơ cấu dân số, sự chuyển dịch lao động ngày càng mạnh mẽ, đan xen theo xu thế tích cực, sẽ tác động hình thành các xu hướng, lợi ích khác nhau.

Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn, lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, nội bộ nhân dân; phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Những vấn đề đang đặt ra ấy đòi hỏi công tác vận động nhân dân của Đảng trong những năm tới cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu: Trước hết là, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân dân. Các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác vận động nhân dân nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về nhận thức, trách nhiệm và hành động thiết thực của mỗi tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, các cán bộ, đảng viên để đưa nghị quyết vào cuộc sống một cách thiết thực, hiệu quả. Nhà nước, chính quyền các cấp tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về vận động nhân dân thành các văn bản pháp luật; tăng cường tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm với nhân dân; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân; thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Lãnh đạo MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để tập hợp nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ ban dân vận cấp ủy các cấp, MTTQ, đoàn thể nhân dân các cấp vững mạnh.

Nguồn Tạp chí Cộng sản