Tết đến, xuân về đọc thơ xuân của Bác Hồ

(NTO) Bác Hồ, vị lãnh tụ thiên tài, người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người ra đi đã để cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta một di sản tinh thần vô cùng quí giá đó là cẩm nang tư tưởng của Người, và ở bất cứ phương diện nào Bác cũng để lại cho chúng ta những bài học lớn, giản dị mà sâu sắc.

Bác Hồ không những là Nhà chính trị lỗi lạc, Nhà quân sự thiên tài mà Bác còn là nhà thơ lớn của dân tộc. Cũng giống như bao thi sĩ khác, mùa xuân là mùa cảm hứng mãnh liệt để Bác làm thơ. Mùa xuân có một vị trí “đặc biệt” trong thơ Bác. Với lối viết riêng biệt, lời thơ ngắn gọn, ngôn từ và cách diễn đạt dễ hiểu như lời Người tâm sự: “Mấy lời thân ái nôm na, Vừa là kêu gọi, vừa là mừng Xuân”. Bên cạnh những cảm xúc đẹp về mùa Xuân, Người còn làm thơ để mừng tuổi đồng bào. Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, Bác trở về đất mẹ Việt Nam, từ đó không năm nào Người không làm thơ chúc tết đồng bào. Từ năm 1942 đến năm 1969, Bác đã làm 22 bài thơ chúc tết. Năm nào cũng vậy cứ mỗi độ xuân sang, Tết đến là đồng bào cả nước lại mong chờ những vần thơ chúc Tết của Bác như một món quà ý nghĩa. Món quà ấy là nguồn động viên, cổ vũ toàn dân tộc cùng nhau đoàn kết một lòng, vững bước tiến lên trong đấu tranh cách mạng, trong lao động và sáng tạo để  dựng xây quê hương, đất nước... Mỗi khi đọc những vần thơ Xuân của Bác ta lại cảm nhận sâu sắc hơn giá trị to lớn ẩn chứa đằng sau thi hứng từ mùa Xuân, nỗi niềm dân tộc, tấm lòng với đồng bào của người cha già kính yêu là những bài học lớn khiến chúng ta phải suy ngẫm, học tập và noi theo. 

Mùa Xuân với sức sống và vẻ đẹp của nó từ bao đời nay đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân. Có lẽ trong cuộc đời là thi sĩ không ai là không có một đôi vần thơ Xuân, Bác Hồ của chúng ta cũng vậy, là người luôn yêu đời, lạc quan, yêu cuộc sống, tâm hồn dễ xúc cảm trước cái đẹp của con người, thiên nhiên, tạo vật, vì thế, thơ Xuân chiếm một phần không nhỏ trong sự nghiệp sáng tác của Người. Nhưng mảng thơ về mùa Xuân của Bác khác với các thi sĩ khác ở chỗ là, Xuân trong thơ Bác không chỉ là mùa Xuân hiện hữu của đất trời mà còn là mùa Xuân chất chứa bao nỗi niềm dân tộc, Xuân bởi lòng người, Xuân của lịch sử và của mong ước tương lai. Đọc thơ Xuân của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy có hai mảng: Những bài thơ viết về mùa Xuân và những bài thơ viết nhân dịp mừng Xuân hay chính là thơ chúc mừng năm mới.

Trước tiên, nói đến thơ viết về mùa Xuân của Bác, chúng ta không thể quên được một bài thơ kiệt tác, có tựa đề: Nguyên tiêu, được Bác viết ở chiến khu Việt Bắc năm 1948

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên

Xuân giang, Xuân thuỷ tiếp Xuân thiên.

Yên ba thâm xứ đàm quân sự

Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Dịch thơ :

Rằm Xuân lồng lộng trăng soi

Sông Xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Giữa dòng bàn bạc việc quân,

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

(Bản dịch của Xuân Thuỷ)

Đây là bài thơ đựoc các nhà nghiên cứu, nhà phê bình và những người yêu thơ Bác bình luận khá nhiều. Chỉ với bốn câu thơ, Bác đã khơi gợi trước mắt người đọc vẻ đẹp thơ mộng, tràn đầy, viên mãn của mùa Xuân trong không gian và thời gian. Đêm rằm tháng giêng, mặt trăng tròn sáng ngời soi tỏ dòng sông mùa Xuân, làn nước mùa Xuân, bầu trời mùa Xuân. Tưởng như rất quen thuộc nhưng cũng không khỏi bất ngờ bởi góc nhìn tươi mới của thi nhân.

Ánh trăng trong đêm mùa Xuân đẹp một cách lạ lùng. Trăng làm cho cảnh vật, sông núi thêm hữu tình. Ánh trăng, mùa Xuân, sông nước, mây trời hòa quyện vào nhau, tô điểm, khơi gợi tâm hồn thi sĩ, soi xuống con thuyền Cách mạng , ở đó Người đang “bàn bạc việc quân”. Mặc dù Bận việc nước, dưới đêm trăng “ đàm đạo quân sự” nhưng với phong cảnh hữu tình của đêm trăng mùa Xuân đẹp như thế thì Người chiến sỹ - thi sỹ ấy không thể không làm thơ. Trăng Xuân oà vào lòng Người, Người mở rộng lòng đón trăng, thưởng ngoạn chất Xuân sung mãn với tâm thế sảng khoái và lạc quan. Trăng là biểu tượng cao đẹp, sáng láng của tự do. Con thuyền bát ngát trăng cũng bát ngát niềm vui cao đẹp tin tưởng vào bình minh sáng rỡ của dân tộc. “Nguyên tiêu” là một bức tranh Xuân đẹp được vẽ nên từ những vần thơ đẹp. Viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, “Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Lẽ ra ở giữa khung cảnh thiên nhiên hữu tình ấy, nhà thơ phải có rượu, có hoa để đàm đạo thơ phú thì ở đây nhà thơ không có rượu, có hoa để đàm đạo thơ phú mà lại “đàm quân sự”. Bài thơ vừa thể hiện tâm hồn, phong thái của một thi sĩ thật lãng mạn nhưng cũng đầy nhiệt huyết cách mạng, vừa thể hiện trí tuệ, cốt cách thanh cao của vị lãnh tụ thiên tài.  

Mùa Xuân không chỉ làm rung động Người trước vẻ đẹp thơ mộng mà mùa Xuân còn đi vào trong thơ Bác như là một nguyên cớ, là nguồn cảm hứng để nhà thơ bày tỏ cái nhìn lạc quan, biện chứng về xu thế vận động, phát triển của lịch sử, của dân tộc. Trong bài Tự khuyên mình Bác đã viết:

Nếu không có cảnh đông tàn

Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày Xuân

Nghĩ mình trong bước gian truân

Gian nan rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Ngữ cảnh trong bài thơ được Người so sánh đối lập hoàn toàn với nhau. Mùa Đông thì giá lạnh, khắc nghiệt. Mùa Xuân thì ấm áp, tươi vui. Bốn mùa luân chuyển âu cũng là qui luật của đất trời: Đông hết Xuân lại về. Và có lẽ cuộc sống của chúng ta cũng vậy, để có được cuộc sống tốt, thành công trên mọi lĩnh vực thì chúng ta không được ngần ngại vất vả, gian truân. Bác là Người có một bộ óc tiên tri rất vĩ đại, nên Người luôn nắm được quy luật tất yếu của lịch sử, của xã hội, Cho nên Bác luôn nhìn cuộc sống, nhìn cách mạng với một tinh thần lạc quan và lòng tin tưởng sâu sắc vào ngày thắng lợi.

Trong sâu thẳm tâm hồn của Bác dù đã rất nhiều năm xa quê hương đất Việt nhưng Bác vẫn không quên được những phong tục truyền thống của Người Việt, lấy mùa Xuân là vạn sự khởi đầu nan “ Một năm bắt đầu từ mùa xuân” và Người lấy Xuân để giãi bày, nhân lên niềm vui, niềm phấn khởi gửi tới muôn người con đất Việt. Trong cuộc đời thi sĩ của Người có lẽ năm 1968, Bác Hồ viết nhiều thơ Xuân nhất. Mùa Xuân năm ấy, Bác Hồ đã viết một chùm thơ Xuân gồm sáu bài, mỗi bài thơ được viết ở những thời gian khác nhau, nội dung và cách diễn đạt cũng khác nhau, nhưng tất cả đều khởi nguồn từ niềm tin và niềm vui chiến thắng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân năm 1968. Chiến công nối tiếp chiến công. Tin thắng trận từ khắp các chiến trường miền Nam dồn dập báo về chính là nguồn thi hứng dạt dào với Người.

Đọc những vần thơ viết về mùa Xuân của Bác, chúng ta thấy ở Bác luôn có một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của một thi nhân , nhưng ta cũng thấy ở đây một cốt cách, phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng kiên trung. Xuân khơi nguồn cảm hứng để Bác làm thơ. Thơ lấy Xuân làm nguyên cớ để thổ lộ, bộc bạch, trải lòng mình của người thi sĩ. Bác để lại cho đời những vần thơ vừa rung động, tràn ngập sắc Xuân, vừa toát lên tinh thần lạc quan, khoẻ khoắn của một ý chí cách mạng kiên trung.

Nói về thơ chúc mừng năm mới của Người, có lần cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết “Hồ Chủ tịch là người Việt Nam, Việt Nam hơn người nào hết. Ngót ba mươi năm bôn ba bốn phương trời, Người vẫn giữ thuần tuý phong độ, ngôn ngữ, tính tình của một người Việt Nam. Ngay sau khi về nước, gặp Tết, Người không quên mừng tuổi đồng bào hàng xóm và quà bánh cho trẻ em. Chỉ có mấy đồng xu, nhưng cũng bọc giấy hồng đơn cẩn thận, tươm tất…”. Hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, Bác Hồ lại có một món quà đặc biệt gửi tới tất cả đồng bào của mình đó là những bài thơ chúc mừng năm mới. Thơ chúc mừng năm mới của Bác không chỉ đơn thuần là món quà “mừng Xuân” mà Bác còn mượn thơ để “kêu gọi”, khích lệ đồng bào và khẳng định niềm tin vào một tương lai rạng ngời của dân tộc. Năm 1942, năm đầu tiên Bác về nước đón Tết sau 30 năm bôn ba kháp năm châu, bốn biển, Bác đã viết bài Thơ chúc Tết Xuân Nhâm Ngọ :

Tháng ngày thấm thoát chóng như thoi,

Năm cũ qua rồi, chúc năm mới:

Chúc phe xâm lược sẽ diệt vong !

Chúc phe dân chủ sẽ thắng lợi !

Chúc đồng bào ta đoàn kết mau !

Chúc Việt Minh ta càng tấn tới,

Chúc toàn quốc ta trong năm này

Cờ đỏ ngôi sao bay phất phới!

Năm này là năm Tết vẻ vang,

Cách mệnh thành công khắp thế giới.

Mặc dù Bác đã đi xa, nhưng mỗi dịp Tết đến, Xuân về đọc lại những bài thơ chúc Tết của Bác, chúng ta lại được dịp ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc, nhìn lại những năm tháng kháng chiến trường kỳ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Xuân 1946, mùa Xuân đầu tiên nước nhà được độc lập, năm diễn ra tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa đầu tiên… một loạt các sự kiện ghi dấu son lịch sử đã mang đến cho nhân dân cả nước một mùa Xuân đầy niềm vui thắng lợi. Trong mùa Xuân ấy, Bác đã vui cái vui của đồng bào, trong cái Tết đặc biệt này, Bác Hồ đã có đến ba bài thơ Xuân chúc Tết đồng bào và chiến sĩ cả nước:

Bác chúc đồng bào cả nước:

Trong năm Bính Tuất mới,

Muôn việc đều tiến tới.

Kiến quốc mau thành công,

Kháng chiến mau thắng lợi.

      ...

Việt Nam độc lập muôn năm!

Mùa Xuân 1946 mới thực sự là mùa Xuân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Đây mới thực sự là Tết độc lập, tự do của dân tộc. Để chào mừng báo Quốc gia, Bác đã viết:

Tết này mới thực Tết dân ta

Mấy chữ chào mừng báo Quốc gia

Độc lập đầy vơi ba chén rượu

Tự do vàng đỏ một rừng hoa

Mọi nhà vui đón Xuân Dân chủ

Cả nước hoan nghênh Phúc Cộng hoà.

Trong cái không khí hân hoan mừng vui chiến thắng , Bác vẫn không quên nhắc nhở mọi người phải tiếp tục phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng cần, kiệm, liêm, chính để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn, Người viết:

Năm mới Bính Tuất

Phụ nữ đồng bào

Phải gắng làm sao

Gây đời sống mới

………….

Cần, kiệm, liêm , chính

Giữ được vẹn mười

Tức là những người

Sống “Đời sống mới”

Nhân dịp đón Xuân Giáp Ngọ năm 2014, chúng ta hãy dành chút thời gian để đọc, thưởng thức lại những vần thơ Xuân của Bác cũng là một cách để chúng ta có dịp nhìn lại lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam rồi suy ngẫm, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người.