Người lính một thời vác đá xây đảo

Trường Sa không chỉ là phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là nơi “nở hoa” của những người lính biển. Trong hàng ngàn người lính ấy, có một chiến sĩ hải quân 13 năm liền vác đá xây đảo và là người có thâm niên lâu nhất xây đảo Trường Sa. Với ông Trường Sa đã ngấm vào máu thịt. Ông luôn trăn trở: “Làm gì cho Trường Sa khi tuổi đã già”. Ông là Phạm Văn Minh, quê ở Nga Thanh, Nga Sơn Thanh Hóa.

Đá càng nặng, tình càng sâu

Đêm đầu tiên trên con tàu HQ-936 của Vùng 4 hải quân chở đoàn đại biểu “góp đá xây Trường Sa” đi thăm quân dân huyện đảo, trong khi mọi người xem phim tư liệu “Tổ quốc nơi đầu sóng” thì một người đàn ông đứng phía mũi tàu nhìn xa xăm, hướng con tàu đi tới. Dưới ánh trăng đầu tuần, nước mắt ông lăn dài, nhớ về những năm tháng cùng bao đồng đội vác đá xây đảo. Ông bảo “Cho dù có đi hết cuộc đời, những năm tháng xây đảo Trường Sa vẫn không thể nào quên trong ký ức tôi. Lính công binh Hải quân cuộc đời đẹp nhất là đi Trường Sa xây đảo”.

Đảo Đá Lát, một thời ông Minh đã xây đảo nơi đây. 

Sau giải phóng Trường Sa năm 1975, đầu năm 1988, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đưa bộ đội hải quân ra Trường Sa ở một số bãi cạn ngầm, khẳng định cột mốc chủ quyền và xây những công trình nhà ở lâu bền trên phần đảo của Tổ quốc. Khi ấy ông Phạm Văn Minh là Đại đội trưởng Đại đội 10 thuộc Trung đoàn 131 Công binh Hải quân. Trước ngày ra bãi cạn Tiên Nữ xây đảo, ông nhận được tin cán bộ chiến sĩ trên tàu HQ-604 đã anh dũng chiến đấu, giành giật từng tấc đảo với quân thù, có người đã vĩnh viễn nằm lại biển khơi. Tin dữ ấy không làm ông chùn bước, trái lại ông càng nung nấu ý chí và quyết tâm đi đảo. “Lúc đó tôi nghĩ, việc xây đảo và khẳng định chủ quyền của Tổ quốc là sứ mệnh của người lính trên tuyến đầu. Đi đảo ngày ấy là một niềm vinh dự lớn lao, tự hào và vinh quang vô cùng”- ông Minh chia sẻ.

Một ngày cuối tháng 3/1988, Đại úy Phạm Văn Minh chỉ huy 36 cán bộ chiến sĩ trên tàu hải quân vượt sóng ra bãi cạn Tiên Nữ xây đảo. Những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, các đảo lớn, nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa vẫn còn hoang sơ, chủ yếu là đảo chìm. Khi thủy triều xuống, đảo nhô lên khỏi mặt nước, thủy triều lên đảo chìm sâu dưới biển. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nắng cháy da, đêm phải đắp chăn chống lại sương biển và hơi muối mặn. Để đẩy nhanh tiến độ xây đảo, các chiến sĩ phải chạy đua với thời gian, bất chấp thời tiết nắng, mưa, hễ thủy triều xuống là đi vác đá từ tàu vào đảo.

Ông Minh (đứng thứ 2 từ phải qua) trong đoàn “góp đá xây Trường Sa” chào cờ
cùng cán bộ chiến sĩ đảo Nam Yết. 

Do ngâm trong nước biển mặn lâu ngày, chân, tay của các chiến sĩ đều bị bong tróc, tóc ai cũng cứng và đỏ quạch như rễ tre, da đen nhẻm. Dưới cái nắng 40 độ C và gió rát mặt, họ chỉ nhận ra nhau qua nụ cười với hàm răng trắng và ánh mắt sáng. Ngày ấy vác đá không có tấm bảo hộ kê vai như bây giờ nên chỉ sau 3 ngày là vai áo chiến sĩ rách bươm. Chúng tôi nghĩ ra cách gấp đôi chiếc bao tải, đặt lên vai làm lót vác đá cho đỡ đau. Thức ăn của chiến sĩ ngày ấy cũng chủ yếu là đồ hộp và rau muống phơi khô đem ra từ đất liền. Do không có thực phẩm tươi, nhiều chiến sĩ bị đau bụng, kiết lị. Nhiều đêm giông bão ầm ầm, anh em ngồi bên nhau kể chuyện quê nhà, cây đàn ghi ta bập bùng, lời bài hát “Đời mình là một khúc quân hành” vang lên trong màn đêm lẫn vào sóng nước. Sau những phút giây vui tươi ấy là khoảng lặng. Trong sâu thẳm trái tim, các chiến sĩ đều nhớ đất liền, thương mẹ già ở quê, nhớ người bạn gái bịn rịn chia tay trước lúc lên đường.

Nói về chuyện vác đá rách vai, giọng ông Minh xúc động: “Vết xước của đá trên vai càng nhiều, mình càng thấy yêu Tổ quốc. Đá càng nặng, tình yêu Tổ quốc càng sâu, thương đồng đội càng nhiều. Vác đá trên vai là vác trọng trách của Đảng và nhân dân giao phó”.

Những khó khăn ấy chưa phải là tận cùng, vào một chiều tháng 7/1988, sau gần 6 ngày vật lộn với nắng gió, một “loa thành” nữa gần hoàn thành. Bỗng nhiên trời nổi cơn dông, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Nhìn bức tường vừa xây xong chưa kịp ráo vữa bị mưa biển xói mòn, anh em ôm nhau khóc. Trong nước mắt, hình ảnh ngôi nhà giữa biển khơi với lá cờ đỏ sao vàng bay trên nóc đảo lấp lánh trong tim ông. Mặc cho bức tường mới xây sạt lở phân nửa, sau cơn giông, ông lại chỉ huy các chiến sĩ khẩn trương bắc giàn giáo, trộn hồ xếp từng viên đá vào lòng biển. 

Tổ quốc gọi, tôi sẽ sẵn sàng

Bây giờ nếu được trở lại Trường Sa, bác sẵn sàng xây đảo chứ?. Chẳng hề do dự, ông Minh trả lời thẳng thắn: “Tổ quốc gọi tôi sẵn sàng. Nếu được trở lại quân ngũ, cho tôi xin trở lại Trường Sa để tiếp tục xây đảo. Trường Sa với tôi là máu thịt thiêng liêng nhất. Từng viên đá xây đảo, từng ngôi nhà lâu bền đã thấm mồ hôi công sức, nhuộm máu đồng đội. Những ngày xây đảo là những ngày đẹp đẽ nhất của cuộc đời tôi”.

Hơn 13 năm chân trần vác đá xây đảo Nam Yết, Tốc Tan, Tiên Nữ, Trường Sa Lớn, cựu binh Minh cảm nhận được sự hi sinh thầm lặng của những người lính công binh thời bình. Tất cả những mất mát đau thương gian khổ năm xưa, bây giờ là hoài niệm thiêng liêng trong ông. Ông đến Trường Sa lần này không chỉ với tư cách là đại biểu “Cựu binh một thời vác đá xây Trường Sa” trong đoàn “Góp đá xây Trường Sa”, là nhân chứng sống về những câu chuyện kể về xây những loa thành kiên cố mang dáng hình Tổ quốc giữa trùng khơi bao la vào những năm 80 của thế kỷ trước, mà còn là người truyền lửa và hâm nóng tình yêu biển đảo cho thế hệ cán bộ chiến sĩ Trường Sa và lớp trẻ. “Từng viên đá, nắm cát Trường Sa đều mang hồn thiêng Tổ quốc. Trường Sa là phần đất không tách rời của Việt Nam, bảo vệ giữ gìn Trường Sa là trách nhiệm của đời đời con cháu”- ông Minh căn dặn chúng tôi.

Cựu binh Phạm Văn Minh quê ở xã Nga Thanh huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa. Gần 30 năm trong đời quân ngũ, hơn 13 năm vác đá xây đảo, hành trang của ông trở về đời thường là ký ức xây đảo. Ông chia sẻ: “Thế hệ chúng tôi, chẳng có gì quí hơn ngoài tình yêu Tổ quốc. Khi đến Trường Sa mới thấy Tổ quốc mình đẹp đẽ và thiêng liêng vô cùng. Quân dân Trường Sa đang vững vàng tay súng canh trời giữ biển. Tôi luôn ủng hộ và dõi theo bước tiến của Trường Sa. Bây giờ tôi cùng vợ con sống ở Quảng Ninh. Mỗi lần ra biển, tôi như thấy Trường Sa trước mắt mình, và thấp thoáng những người lính công binh xây đảo trong ký ức”.

Tháng năm, biển đêm Trường Sa êm dịu, con tàu HQ-936 băng băng tiến về phía trước. Ông Minh cất tiếng đọc cho tôi nghe bài thơ mà ông ghi lại một thời gắn bó với Trường Sa. Trường Sa đứng giữa biển khơi/Bốn mùa sóng vỗ, sóng dồi, sóng xô/Sóng trùm lên đảo san hô/Sóng tung ướt cả ba lô trên sàn. Cuộn gói trong những vần thơ của ông là tinh thần thép và nhựa sống của một thời không thể nào quên. Ánh mắt ông nhìn xa xăm vào biển đêm như tìm về một thời trai trẻ - những tháng năm vô cùng gian khó nhưng cũng đầy oai hùng mà ông và đồng đội đã trải qua.

Nguồn Báo Tin tức-TTXVN