Thông báo nhanh Kết quả Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020

(NTO) Ngày 25-9-2015, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy ban hành công văn số 1757-CV/TG về việc Thông báo nhanh kết quả Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII. Báo điện tử Ninh Thuận đăng toàn văn thông báo này.

Hòa chung khí thế thi đua sôi nổi của cả nước lập thành tích chào mừng các Ngày lễ lớn của đất nước và hướng về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; thời gian qua, Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã có nhiều hoạt động thi đua, phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thách, tập trung lãnh đạo và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2010-2015). Được sự đồng ý của Bộ Chính trị và Ban Bí thư Trung ương Đảng, từ ngày 22 đến ngày 24 tháng 9 năm 2015, tại thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận đã tổ chức trọng thể Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015-2020, với sự có mặt của 349 đại biểu, đại diện cho hơn 15 ngàn đảng viên của 12 đảng bộ trực thuộc.

 
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020.

Đại hội vinh dự được đón đồng chí Trương Hòa Bình - Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao về dự và chỉ đạo Đại hội.

Đến dự Đại hội còn có các đồng chí: Mai Văn Chính - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương; Nguyễn Lam – Phó trưởng Ban Dân vận Trung ương; Nguyễn Chí Dũng - Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Ninh Thuận; Nguyễn Văn Công – Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải; các đồng chí đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương; Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 5; đại diện lãnh đạo các tỉnh Yên Bái, Lâm Đồng, Bình Thuận; Mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động; các đồng chí nguyên Bí thư, Phó Bí thư, Thường trực, Thường vụ Tỉnh ủy qua các thời kỳ, các đồng chí nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII.

Đại hội bầu Đoàn Chủ tịch điều hành Đại hội có 11 đồng chí: Nguyễn Đức Thanh - Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Lưu Xuân Vĩnh - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Nguyễn Xuân Thủy - Ủy viên Ban Thường vụ, Thường trực Tỉnh ủy; Nguyễn Bắc Việt - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Trần Minh Lực - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh; Phan Hữu Đức - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQVN tỉnh; Hoàng Ngọc Thái - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Huỳnh Thế Kỳ - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Kiều Văn Bê - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy; Nguyễn Thị Hồng Hà - Tỉnh ủy viên, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh; Đàng Thị Mỹ Hương, Trưởng ban Dân tộc HĐND tỉnh.

Sau 3 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng bộ và Nhân dân, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XIII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra.

Đại hội đã tiến hành các nội dung bao gồm:

I/ Thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XII, nhiệm kỳ 2010 - 2015 trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII:

Đại hội đã thống nhất đánh giá: trong nhiệm kỳ vừa qua, Đảng bộ, chính quyền, các cấp, các ngành và Nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực, vượt qua những khó khăn, thách thức, nhất là những khó khăn do điều kiện thời tiết nắng hạn kéo dài và sự tác động của suy giảm kinh tế… phấn đấu thực hiện các đột phá về quy hoạch, đầu tư kết cấu hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và cải cách hành chính tạo được sự chuyển biến tương đối toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; tạo ra những điều kiện cơ sở vật chất và tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân trên địa bàn tỉnh trong những năm tiếp theo.

Từ thực tiễn kết quả đạt được trong 5 năm qua và dự báo tình hình những năm sắp tới, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh đã quyết định mục tiêu tổng quát trong giai đoạn 2016-2020 là: Tập trung huy động tốt nhất và phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững gắn với đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, phát huy lợi thế từng ngành, từng sản phẩm đưa quy mô nền kinh tế tăng 1,7 lần so năm 2015, tạo chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; coi trọng phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trọng tâm giảm nghèo bền vững, sớm thu hẹp khoảng cách thu nhập so với bình quân của cả nước. Bảo vệ môi trường, ứng phó có hiệu quả biến đổi khí hậu; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020, như sau:

- Về kinh tế: Tốc độ tăng tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP theo giá so sánh năm 2010) đạt 10 - 11%/năm. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 58 - 60 triệu đồng/người.

Giá trị gia tăng các ngành: Nông - lâm nghiệp và thủy sản tăng 5 - 6%/năm; công nghiệp- xây dựng tăng 14 - 15%/năm; dịch vụ tăng 11 - 12%/năm.

Cơ cấu kinh tế: Nông - lâm - thủy sản chiếm 28 - 29%; công nghiệp - xây dựng chiếm 30 - 31%; dịch vụ chiếm 39 - 40% GRDP vào năm 2020.

Tổng thu ngân sách trên địa bàn đến năm 2020 đạt 2.800 - 3.000 tỷ đồng.

Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2020 là 150 triệu USD.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 khoảng 51 - 55 nghìn tỷ đồng.

- Về xã hội: Tạo việc làm mới cho 15,5 nghìn lao động/năm. Lao động qua đào tạo đến năm 2020 đạt 60%, trong đó đào tạo nghề đạt 45%. Hộ nghèo giảm bình quân hàng năm từ 1,5 - 2%/năm (theo chuẩn mới).

Đến năm 2020: Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,12%; quy mô dân số trung bình đạt 640 nghìn người; đạt 10 bác sỹ/1 vạn dân và 70% trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sỹ; 90% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế; trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng còn dưới 13%.

Có 50% số trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia, 80% số học sinh tiểu học được học 2 buổi/ngày; 20% số trường mầm non đạt chuẩn quốc gia; có 90% số thôn, khu phố, 100% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn về văn hóa. Diện tích sàn nhà ở bình quân 20m2 sàn/người.

- Về môi trường: Tỷ lệ che phủ rừng đạt trên 50%. Tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 95%; số hộ nông thôn có nhà vệ sinh đạt 85%; thu gom rác thải đô thị đạt 95%.

- Về quốc phòng- an ninh: Tỷ lệ xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện đạt từ 70% trở lên. Dân quân, tự vệ đạt từ 1,4 - 1,5% so với dân số; tỷ lệ đảng viên trong dân quân tự vệ đạt 22% trở lên. Có 85% xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp đạt loại khá trở lên về an toàn - an ninh, trật tự.

- Về xây dựng Đảng: Tổ chức cơ sở đảng hàng năm hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt 90% trở lên, trong đó: trong sạch, vững mạnh đạt 50%. Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hàng năm đạt từ 80% trở lên; hàng năm kết nạp từ 800 - 900 đảng viên mới.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ, Đại hội thống nhất tập trung chỉ đạo thực hiện hiệu quả các nhóm giải pháp chủ yếu như sau:

Nhóm giải pháp thứ nhất: Thực hiện đồng bộ, mạnh mẽ các giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo sự chuyển biến rõ nét về nhận thức tư tưởng chính trị, kịp thời giải quyết có hiệu quả vấn đề bức xúc, lãnh đạo hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

Cấp ủy các cấp quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII vào thực tiễn địa phương, đơn vị.

Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội; xây dựng tác phong gần gũi quần chúng, sâu sát cơ sở, chỉ đạo giải quyết có hiệu quả các vấn đề khó khăn, vướng mắc trong thực hiện các chương trình trọng tâm về phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường sự phối hợp của hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, làm tốt công tác vận động quần chúng. Nâng chất lượng tham mưu trên tất cả các mặt của công tác xây dựng Đảng, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Nhóm giải pháp thứ hai: Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm, địa phương đến năm 2020 theo định hướng tái cơ cấu kinh tế của tỉnh, phát huy lợi thế của địa phương, gắn kết sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và thị trường tiêu thụ. Tập trung chỉ đạo xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững gắn với xây dựng nông thôn mới.

Huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư hợp tác công - tư, như: BT, BOT, PPP,… Trọng tâm tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư giới thiệu tiềm năng, lợi thế, danh mục các dự án đến nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhất là các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, công nghệ… để thu hút đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực có lợi thế của tỉnh theo quy hoạch.

Xây dựng cơ chế đặc thù để hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu về giao thông, thủy lợi, y tế và giáo dục, các công trình văn hóa lớn của tỉnh.

Nâng cao năng lực đào tạo nghề theo hướng tiếp cận với tiêu chuẩn của các nước trong khu vực; liên kết với các cơ sở đào tạo có uy tín trong và ngoài nước để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ các ngành năng lượng hạt nhân, năng lượng tái tạo, du lịch. Xây dựng cơ chế, chính sách để thu hút đội ngũ chuyên gia giỏi, những doanh nhân thành đạt về đầu tư và sinh sống tại tỉnh.

Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đồng bộ trên các lĩnh vực, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu mới. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính đối với đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong thực thi công vụ; thực hiện tốt các quy định về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo. Kịp thời cụ thể hóa các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Trung ương phù hợp với tình hình địa phương.

Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học, công nghệ; xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tại chỗ đủ mạnh, đủ sức tiếp cận thành quả của nền kinh tế tri thức. Giám sát chặt chẽ điều kiện về môi trường đối với các dự án đầu tư, có cơ chế, chính sách cụ thể để khuyến khích các cơ sở sản xuất đổi mới công nghệ thân thiện với môi trường; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao ý thức người dân, doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường.

Tập trung triển khai thực hiện một số chương trình trọng điểm để tạo ra năng lực sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: (1) Xây dựng đề án ưu tiên đầu tư các ngành kinh tế biển để trở thành động lực phát triển; (2) dự án ưu tiên xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bao gồm: giao thông, thủy lợi, đô thị, giáo dục, y tế; (3) xây dựng cơ chế thu hút, phát triển du lịch trọng điểm có đẳng cấp cao, khai thác có hiệu quả lợi thế của tỉnh; (4) cụ thể hóa đề án phát triển nguồn nhân lực, tập trung ưu tiên nâng cao chất lượng nguồn nhân lực các ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh; (5) phối hợp với Trung ương hoàn chỉnh cơ chế, chính sách đặc thù phục vụ xây dựng Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận; (6) xây dựng chương trình trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội miền núi; (7) xây dựng chương trình dự án thu hút, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đối với các sản phẩm đặc thù của tỉnh; (8) xây dựng đề án ứng phó với biến đổi khí hậu gắn với chủ trương tiết kiệm nước trong sản xuất, kinh doanh; chuyển mạnh diện tích đất lúa kém hiệu quả sang trồng cây có hiệu quả; (9) xây dựng đề án phục hồi và trồng rừng mới ở lưu vực các hồ chứa nước trên địa bàn tỉnh.

Nhóm giải pháp thứ ba: Về quốc phòng - an ninh và nội chính

Phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân về quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Xây dựng tiềm lực chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, khoa học công nghệ, quân sự, an ninh trong khu vực phòng thủ vững mạnh, đồng bộ, hoạt động hiệu quả gắn với tổ chức diễn tập phòng thủ phù hợp tình hình thực tiễn của địa phương. Xử lý tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng - an ninh; kiềm chế tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Nâng cao trách nhiệm của tổ chức Đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm. Thực hiện nghiêm quy định về kê khai, kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Phát huy tốt vai trò giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Làm tốt công tác tiếp nhận thông tin và xử lý khiếu nại, tố cáo; xử lý nghiêm, đúng pháp luật các hành vi tham nhũng, lãng phí.

Nhóm giải pháp thứ tư: Phát huy hiệu quả vai trò các đoàn thể, thực hiện các phong trào hành động cách mạng.

Tăng cường mở rộng dân chủ trực tiếp gắn với hình thức phù hợp để Nhân dân giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; giám sát, phản biện xã hội trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cấp chính quyền, nhất là giám sát công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí và đạo đức, lối sống của đảng viên, cán bộ, công chức. Quan tâm bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ tập hợp, vận động, thuyết phục quần chúng.

Phát huy truyền thống đoàn kết, thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo. Tổ chức tốt các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trong mọi tầng lớp nhân dân nhằm huy động sức mạnh toàn dân góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Kịp thời nhân rộng gương người tốt, việc tốt trong các phong trào thi đua yêu nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các luận điệu kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo trong tỉnh.

II/ Thông qua Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII. Từ kinh nghiệm của khóa trước, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII cần tiếp tục phát huy ưu điểm, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác cho nhiệm kỳ tới.

III/ Thông qua các Báo cáo tổng hợp ý kiến của các Đảng bộ trực thuộc đóng góp vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII có trách nhiệm tổng hợp ý kiến thảo luận tại Đại hội để bổ sung, hoàn chỉnh văn bản báo cáo Ban Chấp hành Trung ương theo quy định.

IV/ Thông qua kết quả bầu cử:

1/ Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII gồm 50 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 15 đồng chí (có danh sách kem theo)

- Đồng chí Nguyễn Đức Thanh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.

- Đồng chí Lưu Xuân Vĩnh được bầu làm Phó Bí thư tỉnh ủy.

- Đồng chí Nguyễn Bắc Việt được bầu làm Phó Bí thư tỉnh ủy.

2/ Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy khóa XIII gồm 10 đồng chí

Đồng chí Lê Văn Khuê được bầu làm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra tỉnh ủy.

3/ Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng gồm 14 đồng chí đại biểu chính thức và 2 đồng chí dự khuyết.

V/ Đại hội giao cho Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII, căn cứ Báo cáo chính trị và Nghị quyết được Đại hội thông qua để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra.

Để phát huy kết quả thành công của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, quyết tâm đưa Nghị quyết Đại hội sớm đi vào cuộc sống, Đại hội kêu gọi toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân tỉnh nhà phát huy truyền thống cách mạng và những thành tựu đạt được trong nhiệm kỳ qua, nỗ lực khắc phục những hạn chế, yếu kém; triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp trên từng lĩnh vực cụ thể; tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong Nhân dân, phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.