I/ Tình hình tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, miền núi
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết 22-NQ/TW ngày 2-2-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”; các Nghị quyết của Tỉnh ủy về công tác xây dựng Đảng; tình hình xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong toàn tỉnh nói chung và tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, miền núi, ven biển nói riêng đã có nhiều chuyển biến tiến bộ: Chất lượng hoạt động và năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, cấp uỷ từng bước được nâng lên; tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh hàng năm đều tăng; đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ năm sau cao hơn năm trước; công tác kết nạp đảng viên mới được quan tâm, có nhiều chuyển biến tiến bộ. Đến nay, hầu hết các thôn đều có đảng viên và tổ chức đảng, cơ bản đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với địa bàn dân cư.
Hệ thống chính trị ở nông thôn, miền núi tiếp tục được củng cố, kiện toàn, phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương; dân chủ cơ sở được mở rộng và phát huy. Kinh tế nông thôn, miền núi và ven biển đã có sự chuyển biến tích cực: Từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng khai thác lợi thế từng vùng; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật làm tăng giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích. Các mô hình sản xuất có hiệu quả trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản xuất hiện ngày càng nhiều, từng bước được nhân rộng. Chủ trương xây dựng nông thôn mới được quán triệt và triển khai tương đối tập trung. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư để xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, góp phần làm cho diện mạo nông thôn, miền núi có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, miền núi vẫn còn một số khuyết điểm, yếu kém, nổi lên là: Năng lực lãnh đạo của cấp ủy còn hạn chế, nhất là năng lực cụ thể hóa chủ trương, Nghị quyết cấp trên. Việc xây dựng các kế hoạch, chương trình hoạt động của một số cấp uỷ đảng còn rập khuôn, máy móc, chưa sát với tình hình và tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nổi cộm. Chất lượng sinh hoạt đảng của cấp ủy, chi bộ chưa cao, nội dung sinh hoạt chậm đổi mới, sinh hoạt theo chuyên đề chưa nhiều. Trình độ, năng lực tổ chức thực tiễn của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; tinh thần, trách nhiệm và thái độ phục vụ, phụng sự nhân dân có lúc, có nơi chưa tốt. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên ở một số đảng bộ chưa phản ánh đúng thực chất, còn biểu hiện chạy theo thành tích. Số đảng viên kết nạp ở địa bàn dân cư còn ít…
Những khuyết điểm, yếu kém trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là:
- Vai trò của cấp uỷ, chính quyền, mặt trận, đoàn thể trong triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn, nông dân một số nơi chưa cụ thể, nên tổ chức thực hiện còn lúng túng, bị động.
- Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều bất cập so với yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới.
- Sự quản lý, điều hành của chính quyền có nơi, có lúc chưa kịp thời, thiếu kiên quyết; công tác sơ, tổng kết một số chương trình, kế hoạch còn chậm; công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chưa thường xuyên, liên tục.
- Đời sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn khó khăn; trình độ dân trí còn thấp; cơ sở vật chất, hạ tầng thiếu thốn; chế độ chính sách đối với cán bộ còn bất cập, chưa đồng bộ, chưa thể hiện sự quan tâm đúng mức đối với đội ngũ cán bộ cơ sở.
II/ Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, miền núi
1/ Mục tiêu
a/ Mục tiêu tổng quát
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, tạo sự chuyển biến rõ nét về chất lượng hoạt động, làm cho tổ chức đảng cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng chính quyền và các đoàn thể vững mạnh, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc xảy ra ở cơ sở, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới, nhất là ở những địa bàn có ít hoặc chưa có đảng viên, tiến tới xóa thôn trắng đảng viên.
Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách, công chức ở nông thôn, miền núi, ven biển thật sự tâm huyết, có ý thức tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức, chú trọng trẻ hoá cán bộ gắn với phát huy lực lượng cốt cán ở cơ sở, đồng thời đảm bảo đủ số lượng, chất lượng để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong thời gian tới, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung được xác định là nhiệm vụ quan trọng, có tính đột phá.
b/ Mục tiêu cụ thể
- Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng “Hoàn thành tốt nhiệm vụ” hàng năm đạt từ 90% trở lên, trong đó có 60% đạt tiêu chuẩn “Trong sạch, vững mạnh”, không có đảng bộ yếu kém; 100% cơ quan chính quyền vững mạnh, các đoàn thể chính trị - xã hội đạt tiên tiến, vững mạnh; công tác quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội địa phương được giữ vững, ổn định.
- Tỷ lệ đảng viên “Hoàn thành tốt nhiệm vụ” hàng năm đạt từ 80% trở lên, hạn chế đến mức thấp nhất đảng viên vi phạm tư cách;
- Hàng năm tổ chức cơ sở đảng nông thôn, miền núi kết nạp từ 250 - 300 đảng viên mới;
- Đến năm 2015, 100% thôn có đảng viên, 95% thôn sinh hoạt chi bộ độc lập (không tính thôn thành lập mới, chia tách từ năm 2013);
- Phấn đấu đến năm 2015, 42% cán bộ chuyên trách chưa qua đào tạo chuyên môn được đào tạo đạt chuẩn và 58% chưa qua đào tạo trung cấp lý luận chính trị được đào tạo đạt chuẩn; 13% công chức chưa qua đào tạo chuyên môn được đào tạo đạt chuẩn; 45% công chức chưa qua đào tạo trung cấp lý luận chính trị được đào tạo đạt chuẩn.
2/ Nhiệm vụ và giải pháp
2.1/ Củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
Tiếp tục đổi mới việc quán triệt và xây dựng các chương trình, kế hoạch của cấp uỷ thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của cấp uỷ cấp trên một cách cụ thể, sát thực tiễn của từng địa phương, nhất là đổi mới việc xây dựng các văn bản của cấp ủy cơ sở theo hướng ngắn gọn, cụ thể, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm. Mỗi tổ chức đảng phải quyết định được kế hoạch, giải pháp lãnh đạo có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội; phòng chống thiên tai, dịch bệnh; giữ vững an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội; xác định lãnh đạo phát triển kinh tế; ổn định chính trị là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt; xây dựng hệ thống chính trị, mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, góp phần xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo và nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là ở đồng bào vùng cao, vùng khó khăn, vùng dân tộc, lấy đó làm thước đo để đánh giá chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, miền núi phải gắn với kết quả thực hiện các tiêu chí nông thôn mới, xây dựng thương hiệu sản phẩm và nâng cao đời sống nhân dân, để đến năm 2015 có 23% xã đạt chuẩn nông thôn mới và năm 2020 có trên 50% xã đạt chuẩn nông thôn mới.
Đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống loa truyền thanh; nâng cao chất lượng chương trình phát thanh tiếng dân tộc, các chuyên mục trên hệ thống truyền thanh xã, bảo tồn phát huy bản sắc văn hoá truyền thống các dân tộc trong tỉnh.
- Đối với các xã nông thôn, cấp uỷ Đảng cần tập trung lãnh đạo tạo điều kiện phát triển kinh tế tập thể, giúp người dân thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất, nhân rộng và phổ biến các mô hình sản xuất có hiệu quả.
- Đối với xã miền núi, cấp uỷ Đảng chú trọng lãnh đạo việc cung cấp, chuyển giao, hướng dẫn các hộ đồng bào sản xuất giống lúa mới có năng suất, chất lượng, phát huy các nguồn lực tại chỗ về đất đai, khuyến khích các mô hình nông - lâm kết hợp để bảo vệ môi trường, chăm sóc bảo vệ rừng, khai thác tiềm năng vùng lòng hồ để đánh bắt nuôi trồng thủy sản, trồng cây ngắn hạn nâng cao thu nhập, tiếp tục thực hiện các chương trình dự án, chính sách hỗ trợ phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội cho miền núi theo chủ trương của Đảng và Chính phủ; đẩy mạnh công tác đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội, chống mê tín dị đoan và các hủ tục lạc hậu; thực hiện chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo; đấu tranh chống những kẻ lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống Đảng và Nhà nước, bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội trong nhân dân. Chú trọng đào tạo nghề cho thanh niên vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn để thu hút vào làm việc tại cơ sở tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn, tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ, tổ hợp tác, các làng nghề truyền thống trong đồng bào dân tộc.
- Đối với các xã ven biển, cấp ủy Đảng lãnh đạo xây dựng các mô hình sản xuất trên biển, khai thác tiềm năng lợi thế các vùng ven biển có hiệu quả, gắn với bảo vệ quốc phòng, an ninh trên biển, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường biển. Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong khai thác, chế biến, nuôi trồng, sản xuất giống thủy sản kết hợp với đầu tư cơ sở hạ tầng nâng cao hiệu quả kinh tế biển.
2.2/ Chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng chính trị
Lãnh đạo và triển khai tốt công tác học tập, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác giáo dục chính trị tư tưởng; chủ động nắm bắt, dự báo tình hình để có định hướng lãnh đạo kịp thời, không để phát sinh những vấn đề nổi cộm. Đẩy mạnh tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế-xã hội, về công tác dân tộc, tôn giáo, về trách nhiệm chỉ đạo, lãnh đạo thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới… nhằm khơi dậy và phát huy ý thức tự lực, tự cường, truyền thống đoàn kết các dân tộc và truyền thống cách mạng của địa phương; đồng thời, chống lại các âm mưu hoạt động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, các phần tử xấu kích động gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, tôn giáo trên địa bàn nông thôn, miền núi.
Tiếp tục củng cố, kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở, đảm bảo lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị, có năng lực, nhiệt tình tâm huyết và có uy tín. Nâng cao bản lĩnh chính trị kết hợp bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng để họ có đủ kiến thức, có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định lý tưởng cách mạng, mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần đưa nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.
2.3/ Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở
Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, có kiến thức và năng lực tổ chức thực hiện, có tinh thần trách nhiệm trong công tác, hoàn thành nhiệm vụ được giao, theo chủ trương “4 hoá” (trẻ hoá, chuẩn hoá, thể chế hoá và nhất thể hoá). Thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ, luân chuyển cán bộ đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài, có cơ cấu hợp lý về cán bộ nữ, trẻ, dân tộc. Đối với xã đồng bằng, trung du có đồng bào dân tộc thiểu số sống đan xen và xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số thì cán bộ xã phải có người dân tộc với tỉ lệ phù hợp. Quan tâm đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển gắn với xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch, dành tỉ lệ thoả đáng để đào tạo đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc, cán bộ trẻ, con em gia đình chính sách, nhất là ở các xã miền núi còn khó khăn về cán bộ tại chỗ.
Đổi mới việc đánh giá, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực trí tuệ và hoạt động thực tiễn của cán bộ, lấy hiệu quả công tác làm thước đo chủ yếu.
Thực hiện tiêu chuẩn cán bộ, công chức theo quy định của Bộ Nội vụ kết hợp với rà soát cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã. Đối với cán bộ chưa đạt chuẩn theo quy định, cần khẩn trương phân loại, sắp xếp và xây dựng kế hoạch, hoàn thành việc chuẩn hoá theo hướng: Ở những xã có nguồn thay thế tốt thì sắp xếp điều chuyển hoặc giải quyết chế độ theo quy định đối với cán bộ, công chức cao tuổi, năng lực hạn chế; đối với cán bộ còn năng lực, đủ tuổi tái cử nhiệm kỳ tới thì rà soát, tổng hợp số lượng, có kế hoạch cử đi đào tạo, bồi dưỡng. Phấn đấu đến năm 2015, cán bộ, công chức cấp xã phải đạt chuẩn theo quy định của Bộ Nội vụ; những cán bộ, công chức tuyển dụng vào làm việc tại các xã sau khi có Nghị quyết này phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn theo quy định.
Đối với các xã đặc biệt khó khăn, đội ngũ cán bộ tại chỗ không đáp ứng được yêu cầu thì tiếp tục thực hiện chủ trương tăng cường cán bộ có phẩm chất, năng lực và kinh nghiệm công tác ở cấp trên hoặc từ nơi khác về thay thế; tổ chức đánh giá hiệu quả chủ trương đưa sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy về làm việc tại các xã để tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.
2.4/ Nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở nông thôn, miền núi
Lãnh đạo UBND xã nâng cao năng lực cụ thể hóa, năng lực tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng; đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành. UBND xã phải xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể để phấn đấu đạt được tiêu chí nông thôn mới. Các cấp uỷ Đảng xây dựng quy chế phối hợp, định kỳ làm việc với mặt trận, đoàn thể, đồng thời lãnh đạo thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở theo tinh thần Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên tất cả các lĩnh vực và dựa vào dân để xây dựng chính quyền vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông”; công khai đầy đủ các thủ tục hành chính trong xử lý công việc đối với tổ chức và công dân.
Mặt trận, các đoàn thể tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp quần chúng; tăng cường giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; phát động phong trào, xây dựng mô hình mới gắn với lợi ích thiết thực của quần chúng để thu hút đoàn viên, thanh niên, hội viên tham gia. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền để làm tốt công tác tuyên truyền vận động, giáo dục, nâng cao vai trò lực lượng nòng cốt, cốt cán, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tích cực vận động nhân dân thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra điểm nóng ở cơ sở. Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, chung tay xây dựng nông thôn mới. Phát huy vai trò giám sát của mặt trận, các đoàn thể đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên; tăng cường đối thoại trực tiếp lắng nghe ý kiến nhân dân, vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.
2.5/ Thực hiện đồng bộ các biện pháp để xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố tổ chức cơ sở đảng yếu kém, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, chăm lo công tác kết nạp đảng viên để xóa tình trạng sinh hoạt chi bộ ghép, thôn chưa có đảng viên; phân công, quản lý đảng viên, dựa vào dân để xây dựng Đảng.
Các cấp uỷ Đảng ở xã rà soát bổ sung và hoàn thiện quy chế làm việc, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, từng chức danh, trước hết là thường trực cấp ủy, ban thường vụ, đảng ủy, chi ủy, chi bộ trực thuộc, nhất là các chi bộ thôn; kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng cho phù hợp với tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Tiếp tục đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy và chi bộ theo Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư. Hàng tháng, hàng quý trong sinh hoạt đảng phải có kế hoạch hoặc nghị quyết chuyên đề bàn sâu công tác trọng tâm, bức xúc, nổi cộm ở địa phương để lãnh đạo giải quyết. Nội dung sinh hoạt cấp ủy, chi bộ phải thiết thực, cụ thể, tập trung thảo luận, tranh luận để có các giải pháp sát đúng đối với việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm; có sự phân công cán bộ, đảng viên phụ trách từng lĩnh vực cụ thể. Tùy theo tình hình đặc điểm thực tế của địa phương để lựa chọn nội dung sinh hoạt đảng định kỳ cho phù hợp, gắn với đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp thường xuyên dự sinh hoạt với chi bộ, đồng thời kiểm tra chất lượng các kỳ họp để có biện pháp uốn nắn kịp thời.
Thực hiện tốt hơn việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng hàng năm trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng đã quy định, chấm điểm theo thang bảng điểm phải chính xác, trung thực; chỉ đạo chính quyền, đoàn thể tổng kết, đánh giá trước; cấp uỷ cấp trên trực tiếp kiểm tra, thẩm định lại trước khi quyết định công nhận.
Tổ chức việc đánh giá chất lượng đảng viên hàng năm theo nhiệm vụ, Điều lệ Đảng và nhiệm vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể giao; tự nhận mức độ hoàn thành nhiệm vụ trước chi bộ, xác định những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân để đề ra giải pháp khắc phục cụ thể; cấp uỷ giám sát, kiểm tra việc thực hiện của từng đảng viên; hàng năm liên hệ kiểm điểm đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ gắn với tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) về: “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng về lịch sử chính trị, chính trị hiện nay và những điều đảng viên không được làm.
Cấp uỷ viên cơ sở phải được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng, kỹ năng lãnh đạo, đối thoại giải quyết tình huống cụ thể ở cơ sở cũng như kinh nghiệm nắm bắt, giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc, thủ tục, quy trình, tiêu chuẩn và chất lượng, chống khuynh hướng chạy theo số lượng, hoặc định kiến hẹp hòi; tạo nguồn phát triển đảng thông qua các phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh nông thôn để lựa chọn và phân công đảng viên giúp đỡ, bồi dưỡng; kết nạp quần chúng ưu tú trong lực lượng cán bộ các đoàn thể, cán bộ thôn, lực lượng dân quân, đoàn viên, thanh niên, hội viên nông dân, phụ nữ lao động sản xuất tiêu biểu, quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự, con em gia đình chính sách, gia đình cán bộ, gia đình có công với cách mạng; đồng thời, coi trọng giáo dục, rèn luyện đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức; thực hiện tốt quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về kết nạp đảng đối với người có đạo, người có quan hệ hôn nhân với người nước ngoài, người Hoa, vi phạm kế hoạch hoá gia đình, chủ doanh nghiệp tư nhân và kết nạp lại người vào Đảng.
2.6/ Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy cấp trên trực tiếp đối với cơ sở
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, quản lý tổ chức đảng và đảng viên của các cấp uỷ đảng cơ sở trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ của đảng viên theo quy định Điều lệ Đảng.
Quan tâm củng cố tổ chức cơ sở đảng yếu kém, có biểu hiện mất đoàn kết; đối với các tổ chức cơ sở đảng chưa đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh cần xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan để có biện pháp khắc phục; cấp ủy cấp trên thường xuyên hỗ trợ, tạo điều kiện giúp đỡ để tổ chức cơ sở đảng phấn đấu đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh.
Cấp uỷ cấp trên trực tiếp phải thường xuyên sâu sát, hướng dẫn cơ sở, đối thoại trực tiếp với đảng viên và nhân dân; kịp thời kiểm tra, giúp đỡ, tháo gỡ khó khăn cho cơ sở, thực hiện tốt chủ trương “tỉnh nắm chắc từng xã, huyện nắm chắc từng thôn, xã nắm chắc từng cán bộ, đảng viên và hộ gia đình”; cán bộ được cấp uỷ phân công phụ trách địa bàn và cán bộ cấp trên cơ sở phải chịu trách nhiệm liên đới nếu tổ chức cơ sở đảng thuộc phạm vi mình phụ trách yếu kém.
III/ Tổ chức thực hiện
1/ Các huyện uỷ, thành uỷ và đảng uỷ trực thuộc, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn tỉnh có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết đến cán bộ, đảng viên trong tỉnh nhằm tạo sự chuyển biến thật sự rõ nét cả về nhận thức và hành động, có sự thống nhất cao trong tổ chức thực hiện; đồng thời xây dựng nghị quyết chuyên đề chỉ đạo các tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ mình đảm bảo cụ thể, sát thực tiễn, có tính khả thi cao nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ tỉnh uỷ đạt hiệu quả tốt nhất.
2/ Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh lãnh đạo việc xây dựng và bổ sung, sửa đổi một số văn bản đã ban hành liên quan đến chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở, đồng thời tăng cường giám sát việc tổ chức thực hiện.
3/ Ban cán sự Đảng UBND tỉnh chỉ đạo Sở Nội vụ tham mưu hoàn chỉnh quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, chính sách cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, công chức nói chung và cán bộ chuyên trách, công chức ở các xã nông thôn, miền núi nói riêng để làm cơ sở tổ chức thực hiện; trong đó, cần xác định lộ trình, bước đi cụ thể theo kế hoạch năm và từng năm cho phù hợp nhiệm vụ Nghị quyết đề ra; chỉ đạo các sở, ban, ngành lồng ghép thực hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nông thôn mới, nhất là các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, bãi ngang, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn.
4/ Ban Dân vận Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp Đảng đoàn Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh xây dựng kế hoạch tuyên truyền triển khai Nghị quyết và hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đoàn thể đã nêu trong Nghị quyết.
5/ Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ chỉ đạo, hướng dẫn việc học tập, quán triệt, định hướng các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh tăng cường công tác thông tin, phổ biến, giải đáp các chủ trương, biện pháp về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn, miền núi; phát hiện, phản ánh các tập thể, cá nhân điển hình trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ ở nông thôn, miền núi để biểu dương, nhân rộng.
6/ Ban Tổ chức Tỉnh uỷ chủ trì, phối hợp với các ban Xây dựng Đảng Tỉnh uỷ hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra, giám sát việc thực hiện; tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo triển khai các nội dung liên quan công tác xây dựng Đảng đề ra trong Nghị quyết và Đề án đã được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ thông qua; đồng thời định kỳ tham mưu Thường vụ Tỉnh ủy sơ, tổng kết và chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.