Dự thảo quy định cụ thể 10 loại hình hàng hóa xuất, nhập khẩu áp dụng thủ tục hải quan điện tử, như: hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hóa; hàng hóa xuất, nhập khẩu để thực hiện hợp đồng gia công với thương nhân nước ngoài, để thực hiện dự án đầu tư, hay hàng hóa kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất...
Bộ phận soạn thảo cho biết, trên cơ sở kế thừa những kết quả đã đạt được trong quá trình thực hiện thí điểm theo Thông tư 222/2009/TT-BTC, dự thảo này chỉ hướng dẫn việc thực hiện thủ tục hải quan bằng phương thức điện tử. Các nội dung khác đã được quy định tại các văn bản cấp tương đương nhưng có thể áp dụng chung cho cả thủ tục hải quan điện tử và thủ tục hải quan truyền thống mà không ảnh hưởng đến việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử thì không quy định tại dự thảo Thông tư này, như: trị giá hải quan, tính thuế, sở hữu trí tuệ, kiểm tra sau thông quan, phúc tập hồ sơ, doanh nghiệp ưu tiên …
Đồng thời, dự thảo cũng đề xuất không quy định những nội dung chưa thực hiện trong giai đoạn thí điểm thủ tục hải quan điện tử hoặc đang thực hiện thí điểm mà chưa có kết quả tổng kết, đánh giá (như E-manifest, E- payment), đã thực hiện thí điểm nhưng không mang lại hiệu quả hoặc chưa đảm bảo quản lý hải quan trong điều kiện hiện tại.
Trách nhiệm xây dựng, sử dụng hệ thống dữ liệu hải quan
Ngoài việc loại bỏ những điều không phù hợp, dự thảo Thông tư cũng đưa ra những quy định mới so với Thông tư 222/2009/TT-BTC. Theo đó, dự thảo quy định rõ trách nhiệm của các bên trong việc xây dựng, quản lý, vận hành, khai thác sử dụng Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan nhằm tạo điều kiện xác định rõ nội dung phối hợp của Hải quan với các bên liên quan.
Cụ thể, dự thảo quy định Tổng cục Hải quan có trách nhiệm tổ chức xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác sử dụng Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử Hải quan.
Các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến cấp phép cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, thực hiện kết nối xử lý thông tin với Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan có trách nhiệm thông qua Hệ thống, phối hợp, trao đổi thông tin trong khuôn khổ Cơ chế Hải quan một cửa quốc gia. Qua đó, tạo cơ sở để cơ quan Hải quan ra các quyết định thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về Hải quan.
Còn các cơ quan kinh doanh dịch vụ kho bãi, phải có trách nhiệm cung cấp thông tin về hàng hóa xuất nhập khẩu đã đưa vào, đưa ra, hàng hóa còn tồn tại kho bãi cho cơ quan Hải quan thông qua Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan để sử dụng làm một trong những căn cứ cho việc xác nhận hàng hóa đã đưa vào, đưa ra khu vực giám sát hải quan…
Nguồn www.chinhphu.vn