Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 9 nhóm hàng tăng giá, 2 nhóm hàng giảm giá. Đại diện Tổng cục Thống kê lý giải: Một số địa phương thực hiện tăng giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT; Tập đoàn Điện lực Việt Nam điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân; giá gạo trong nước tiếp tục tăng theo giá gạo xuất khẩu là những nguyên nhân chính làm cho chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2024 tăng 0,31% so với tháng trước.
Chỉ số giá nhóm lương thực tháng 01/2024 tăng 1,74% so với tháng trước.
So với cùng kỳ năm 2023, CPI tháng 1/2024 tăng 3,37%; lạm phát cơ bản tháng 01/2024 tăng 2,72%. Theo đó, 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với 1,02% (làm CPI chung tăng 0,05 điểm phần trăm), trong đó chỉ số giá thuốc các loại tăng 0,09%; dịch vụ khám chữa bệnh ngoại trú tăng 0,89%; dịch vụ khám chữa bệnh nội trú tăng 1,67%.
Nguyên nhân chủ yếu do một số địa phương triển khai áp dụng giá dịch vụ y tế mới theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT ngày 17/11/2023 của Bộ Y tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp.
Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0.56% (làm CPI chung tăng 0,11 điểm phần trăm), do giá điện sinh hoạt tháng 1/2024 tăng 1,29% so với tháng trước và nhu cầu dùng điện để sưởi ấm tăng khi thời tiết chuyển lạnh; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,53% và giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,33%; giá gas tăng 1,69%.
Ngược lại, giá dầu hỏa tháng 1/2024 giảm 1,24% so với tháng 12/2023 do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá vào ngày 4/1; 11/1; 18/1 và 25/1.
Tốc độ tăng/giảm CPI tháng 1/2024 so với tháng trước. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính, có 09 nhóm hàng tăng giá, 02 nhóm hàng giảm giá.
Nhóm giao thông tăng 0,41% do chỉ số giá xăng tăng 0,79%; chỉ số giá dầu diezen tăng 1,39%; chỉ số giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 3,64%; giá phụ tùng ô tô tăng 0,06%; lốp, săm xe máy tăng 0,12%; phụ tùng khác của xe đạp tăng 0,47%; dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại tăng 0,38%, dịch vụ rửa xe, bơm xe tăng 0,63% do chi phí nhân công và nhu cầu tăng trong dịp cuối năm; phí cầu đường tăng 1,54%.
Ngược lại, có một số mặt hàng giảm giá so với tháng trước: Giá xe ô tô mới, xe máy và xe ô tô đã qua sử dụng lần lượt giảm 0,33%, 0,04% và 0,4% do các hãng xe áp dụng chương trình khuyến mại để kích cầu tiêu dùng.
Theo Tổng cục Thống kê, nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,40%, chủ yếu tăng giá ở một số mặt hàng: Giá nhóm đồ trang sức; dịch vụ cắt tóc, gội đầu; dịch vụ chăm sóc cá nhân. Vào mùa cưới nên giá các vật dụng, dịch vụ về cưới hỏi tăng 0,47%. Bên cạnh đó, nhu cầu đồ thờ cúng vào dịp cuối năm tăng nên giá các mặt hàng này tăng 0,39% so với tháng trước.
Do nhu cầu tiêu dùng và sử dụng làm quà biếu tặng tăng vào dịp Tết Nguyên đán, nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,38% khiến giá rượu bia tăng 0,54%; thuốc hút tăng 0,32%; đồ uống không cồn tăng 0,06%. Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,22% do chi phí nhân công, chi phí vật liệu, nhu cầu mua sắm quần áo mùa đông và dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn tăng.
Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,21% (tác động làm CPI chung tăng 0,07 điểm phần trăm), trong đó lương thực tăng 1,74%; thực phẩm giảm 0,09%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,30%...
Hai nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm: Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,05% do các hãng thực hiện các chương trình khuyến mại giảm giá đối với một số loại điện thoại di động.
Nhóm giáo dục giảm 0,12%, trong đó dịch vụ giáo dục giảm 0,15%. Nguyên nhân chủ yếu do ngày 31/12/2023, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 97/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ, trong đó yêu cầu giữ ổn định mức thu học phí từ năm học 2023 - 2024 bằng mức thu học phí của năm học 2021 - 2022 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập. Do đó, một số địa phương đã điều chỉnh giảm mức học phí sau khi đã thu theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP.
Nhu cầu sắm vàng trước Tết khiến chỉ số giá vàng tăng 2,55%Theo Tổng cục Thống kê, giá vàng trong nước biến động ngược chiều với giá vàng thế giới. Tính đến ngày 25/1, bình quân giá vàng thế giới ở mức 2.014,85 USD/ounce, giảm 1,23% so với tháng 12/2023 do đồng USD mạnh lên và thời điểm cắt giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) khó dự đoán. Trong nước, nhu cầu mua sắm vàng trước Tết Nguyên đán tăng làm chỉ số giá vàng tháng 1/2024 tăng 2,55% so với tháng 12/2023 và tăng 15,43% so với cùng kỳ năm trước.
Trên thế giới, giá đồng đô la Mỹ có xu hướng tăng khi các nhà đầu tư tiếp tục mua vào đồng bạc xanh với kỳ vọng FED sẽ không sớm cắt giảm lãi suất. Tính đến ngày 25/1, chỉ số đô la Mỹ trên thị trường quốc tế đạt mức 103,18 điểm, tăng 0,24% so với tháng trước. Trong nước, giá đô la Mỹ bình quân trên thị trường tự do quanh mức 24.555 VND/USD. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 1/2024 tăng 0,52% so với tháng 12/2023 và tăng 3,69% so với cùng kỳ năm trước.
Theo TTXVN/Báo Tin tức