Nội dung Thông báo Kết luận của Ban Thường vụ Tỉnh ủy như sau:
Qua 05 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TU, ngày 19/4/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; Ban Thường vụ Tỉnh ủy có một số kết luận như sau:
I-Về những kết quả đạt được
Qua 05 năm triển khai thực hiện Chỉ thị 36-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị, Kết luận 61-KL/TW của Ban Bí thư đã tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và Nhân dân đối với vai trò, vị trí của Hội Nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Các cấp chính quyền, Mặt trận và các ban, ngành, đoàn thể thường xuyên phối hợp, tạo điều kiện để Hội Nông dân thực hiện các cơ chế, chính sách liên quan đến nông nghiệp, nông thôn. Vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới ngày càng được thể hiện rõ, vị thế được nâng lên rõ rệt; tổ chức Hội Nông dân được củng cố vững mạnh, góp phần phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông thôn, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên, nông dân. Hội nông dân đã phối hợp đề xuất kịp thời về các cơ chế, chính sách hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn; việc bố trí vốn đầu tư triển khai các dự án lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được quan tâm hơn, nhiều công trình hoàn thành đưa vào khai thác sử dụng, phát huy được hiệu quả; công tác vận động, thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn được tích cực triển khai. Qua đó góp phần thay đổi diện mạo nông thôn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Bên cạnh kết quả đạt được, có một số hạn chế, đó là: công tác tuyên truyền tại một số địa phương chưa sâu, rộng; một số cấp ủy, chính quyền và các cơ quan chuyên môn, cũng như Hội Nông dân các cấp chưa nhận thức rõ về Chỉ thị 36- CT/TU nên việc thực hiện hiệu quả chưa cao. Chưa thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Công tác phối hợp giữa Hội Nông dân với một
số sở, ngành, đoàn thể hiệu quả chưa cao, có lúc, có nơi còn hình thức, chưa đồng bộ. Việc tạo điều kiện để Hội Nông dân tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách liên quan có lúc, có nơi thực hiện chưa tốt. Hoạt động của một số tổ chức Hội Nông dân còn chậm đổi mới; một số Hội Nông dân cơ sở chưa phát huy tốt vai trò, chức năng là người đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên; chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong xây dựng nông thôn mới. Công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cũng như việc nắm bắt tư tưởng, nguyện vọng của hội viên nông dân chưa kịp thời. Hoạt động của các Hợp tác xã, Tổ hợp tác còn nhiều lúng túng, bất cập, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh, khả năng cạnh tranh trên thị trường chưa cao. Công tác đào tạo cho lao động nông thôn tuy có kết quả song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Vấn đề ô nhiễm môi trường, rác thải từ nông nghiệp, thuốc bảo vệ thực vật... chưa được xử lý dứt điểm. Đời sống của cư dân nông thôn tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số.
Về nguyên nhân: Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, có một số nguyên nhân chủ quan, đó là: nhiều chủ trương, chính sách được ban hành nhưng việc tổ chức thực hiện còn chậm do thiếu nguồn lực; chính sách hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp còn thiếu tính đột phá, chưa giải quyết được khó khăn thực sự trong sản xuất nông nghiệp. Một số sở, ban, ngành chưa tích cực chủ động hợp tác với Hội Nông dân cùng cấp. Công tác quản lý nhà nước đối với nông nghiệp còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, hạn chế, nhất là trong quản lý vật tư nông nghiệp và giải quyết đầu ra chưa ổn định. Một số cấp Hội Nông dân chưa tranh thủ sự lãnh đạo của các cấp ủy, sự tạo điều kiện của các cấp chính quyền, sự phối hợp của các sở, ngành để thực hiện Chỉ thị 36-CT/TU. Năng lực một số cán bộ Hội còn hạn chế, thiếu nhiệt tình với công tác Hội. Một bộ phận nông dân còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước; chưa thực sự chủ động, tích cực, thiếu khát vọng vươn lên, khả năng tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới còn chậm.
Một số bài học kinh nghiệm: (1) Có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền trong việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TU; chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm, sát tình hình thực tế của địa phương, đơn vị, kết hợp với thường xuyên kiểm tra, đôn đốc; kịp thời sơ, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm, nhân rộng các điển hình, mô hình, cách làm hay, hiệu quả. (2) Có sự phối hợp tạo điều kiện của chính quyền và sự phối hợp của các Sở, ban, ngành đoàn thể. Chính quyền tạo cơ chế thuận lợi cho Hội trực tiếp thực hiện và phối hợp thực hiện các chương trình, dự án liên quan đến nông nghiệp, nông thôn. Mặt trận và các đoàn thể phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của cán bộ, hội viên nông dân về chủ trương, quan điểm của Đảng đối với nông nghiệp, nông thôn cũng như vị trí, vai trò của tổ chức Hội trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. (3) Tập trung phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao dân trí, khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật trong phát triển nông nghiệp, góp phần cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân, là tiền đề huy động nông dân đóng góp, tham gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng giai cấp nông dân vững mạnh. (4) Tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, cán bộ Hội phải thường xuyên bám sát cơ sở, nắm bắt tư tưởng của hội viên, kịp thời chỉ đạo tổ chức tốt phong trào phù hợp với điều kiện cụ thể; tăng cường công tác tuyên truyền, vận động gắn với hoạt động dịch vụ, tư vấn, dạy nghề và hỗ trợ nông dân về vốn, vật tư nông nghiệp, hướng dẫn khoa học, kỹ thuật phát triển sản xuất, kinh doanh. (5) Thường xuyên xây dựng củng cố tổ chức Hội, quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội các cấp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ Hội cơ sở có trình độ, năng lực, nhiệt tình, tâm huyết, có trách nhiệm, có uy tín với nông dân và có điều kiện hoạt động; đa dạng hoá các mô hình hoạt động và các hình thức tập hợp hội viên để thu hút đông đảo nông dân tham gia vào tổ chức Hội.
II-Nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện trong thời giân tới
Hiện nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành các Nghị quyết số 19-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới, Tỉnh ủy đã ban hành các Nghị quyết số 06-NQ/TU về tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, Nghị quyết số 16- NQ/TU về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng thực hiện xây dựng nông thôn mới đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, các chương trình hành động thực hiện Nghị quyết của Trung ương. Để triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương mới của Đảng và Nhà nước liên quan đến nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền chỉ đạo triển khai thực hiện một số nội dung sau:
1. Giao Ban Dân vận Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân trong giai đoạn mới, phù hợp với các quan điểm, chủ trương do Trung ương và tỉnh mới ban hành. Thời hạn trong tháng 6 năm 2023.
2. Trước mắt, các cấp ủy, chính quyền, Đảng đoàn Hội Nông dân tỉnh tập trung chỉ đạo thực hiện một số nội dung sau:
2.1. Các cấp Hội Nông dân lãnh đạo, chỉ đạo có kế hoạch cụ thể trong việc tuyên truyền, quán triệt, vận động và triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, nhất là Nghị quyết số 19-NQ/TW, Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII; Nghị quyết số 06-NQ/TU ngày 12/10/2021, Nghị quyết số 16-NQ/TU, ngày 13/01/2022, Chương trình hành động số 154- CTr/TU, 155-CTr/TU ngày 21/11/2022 của Tỉnh ủy; về hội nhập kinh tế quốc tế, các Hiệp định thương mại tự do (FTA)…
2.2. Cấp ủy, chính quyền các cấp tạo điều kiện để các cấp Hội Nông dân phát huy tích cực vai trò giám sát, phản biện xã hội trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn, tích cực vận động, tuyên truyền, có giải pháp cụ thể tham gia hỗ trợ trong các vấn đề:
- Thúc đẩy phát triển các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế gắn với xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo các tiêu chuẩn và yêu cầu của thị trường, số hóa vùng trồng; xây dựng cơ sở hạ tầng, tổ chức dịch vụ hỗ trợ, hệ thống hậu cần; đổi mới hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị và thúc đẩy hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương trong từng vùng và giữa các vùng, kết nối chuỗi giá trị toàn cầu; hoàn thiện sản phẩm theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, bao bì, nhãn mác gắn với truy xuất nguồn gốc, thương hiệu địa phương và nhãn hiệu hàng hóa; áp dụng công nghệ số trong quản lý và thương mại sản phẩm để từng bước đẩy mạnh thương hiệu OCOP trên thị trường trong nước và hướng đến xuất khẩu; hình thành mạng lưới lưu thông, bảo quản, chế biến, thương mại điện tử ở nông thôn… Đẩy mạnh thực hiện liên kết 4 nhà, hỗ trợ nông dân đầu tư phát triển sản xuất, tiêu thu hàng hóa, tăng giá tri nông sản, công nhận sản phẩm hữu cơ, Vietgap, từng bước hình thành các vùng sản xuất an toàn.
- Phát huy vai trò trong công tác vận động, tuyên truyền, tổ chức các phong trào nông dân tham gia phát triển kinh tế nông thôn; có giải pháp hỗ trợ thúc đẩy phát triển các loại hình công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn; vận động các doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ đầu tư vào nông thôn. Hỗ trợ đào tạo, từng bước hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp; phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác; khuyến khích nông dân tham gia các chương trình đào tạo để sản xuất ra sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn và yêu cầu mới của thị trường.
2.3. Hội Nông dân các cấp tiếp tục tích cực tuyền truyên, vận động, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, nông thôn văn minh, hiện đại gắn với đô thị hóa, giữ gìn văn hóa truyền thống; phát huy tinh thần đoàn kết, tình làng, nghĩa xóm, tương thân, tương ái, đẩy mạnh phong trào nông dân khởi nghiệp, thi đua sản xuất kinh doanh, cùng nhau làm giàu, giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm quyền làm chủ của nông dân và dân cư nông thôn theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
2.4. Hội Nông dân, các tổ chức chính trị-xã hội, Liên minh Hợp tác xã và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tăng cường cung cấp dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp luật, kiến thức sản xuất kinh doanh, khoa học-công nghệ; đẩy mạnh các phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng gia đình, thôn văn hoá.
2.5. Quan tâm công tác xây dựng Hội Nông dân vững mạnh, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở để thực sự là tổ chức đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nông dân. Chú trọng công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng, củng cố, kiện toàn tổ chức hội, quy hoạch, luân chuyển cán bộ Hội, phát triển hội viên.
2.6. Hội Nông dân các cấp chủ động, tích cực tham gia công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; chủ động rà soát, điều chỉnh, ký kết các chương trình liên tịch với các ngành để phối hợp thực hiện hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng. Tham gia tích cực trong công tác tiếp công dân và giải quyết đơn thư.
NT