Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam năm 2023: Sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo

Nhân Ngày Đại dương thế giới năm 2023, Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (từ ngày 1 đến 8/6/2023), Bộ Tài nguyên và Môi trường kêu gọi cộng đồng cùng hành động thiết thực để góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ biển và đại dương; khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo.

Phát triển bền vững kinh tế biển (KTB) luôn là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Nhân Ngày Đại dương thế giới năm 2023, Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam (từ ngày 1 đến 8/6/2023), Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) kêu gọi cộng đồng cùng hành động thiết thực để góp phần bảo vệ môi trường (BVMT), bảo vệ biển và đại dương; khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo.

Kinh tế biển - một trong những động lực quan trọng để phát triển đất nước

Việt Nam là quốc gia nằm bên bờ Tây của Biển Đông với bờ biển dài hơn 3.260 km trải dài từ Bắc xuống Nam và cứ 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, sông ngòi và biển đảo luôn gắn với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước, con người Việt Nam. Ngày nay, với khoảng 50% dân số cả nước sống ở các vùng đất thấp và ven biển, KTB càng giữ vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Hằng năm, du lịch biển đảo mang lại 70% doanh thu cho ngành du lịch cả nước. Năm 2022, khối lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển ước đạt 108,9 triệu tấn, tăng 27,9% so với năm 2021; sản lượng khai thác dầu khí đạt 18,92 triệu tấn; sản lượng thủy sản khai thác đạt 3,86 triệu tấn, nuôi trồng đạt 5,16 triệu tấn...

Cả nước hiện có 18/19 khu kinh tế ven biển nằm trong quy hoạch đã được thành lập; đã hình thành chuỗi đô thị biển với gần 600 đô thị, chiếm khoảng 8% số lượng đô thị cả nước với dân số khoảng 19 triệu người.

Với vai trò quan trọng như vậy, trong nhiều năm qua, phát triển bền vững KTB luôn là một trong những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta với quan điểm: phát triển bền vững KTB trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước, đạt mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh.

Vịnh Vĩnh Hy (Ninh Hải). Ảnh: CTV

Thực hiện chủ chương của Đảng và Nhà nước, Bộ TN&MT đã tích cực, chủ động tham mưu Đảng và Nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng về quản lý tài nguyên, BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) và phát triển bền vững KTB. Qua đó, đã từng bước nâng cao nhận thức của cộng đồng về tác hại của các sản phẩm có nguồn gốc từ nhựa, túi nilon sử dụng một lần đối với môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe con người; việc khuyến cáo người dân hạn chế sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một lần và túi nilon khó phân hủy và khuyến khích sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường thay thế sản phẩm nhựa truyền thống được triển khai đồng bộ trên cả nước; nhiều phong trào phòng, chống rác thải nhựa được phát động thu hút sự tham gia của đông đảo người dân.

Cùng với đó, việc đẩy mạnh phát triển KTB cũng được chú trọng. Theo đó, hệ thống kết cấu hạ tầng vùng biển, ven biển được quan tâm đầu tư; nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, phát triển nguồn nhân lực về biển đạt được nhiều kết quả tích cực; công tác quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên môi trường biển, ứng phó với BĐKH, nước biển dâng được chú trọng... Đến nay, cả nước có 12 khu bảo tồn biển đã được thành lập với tổng diện tích hơn 206.000 ha, trong đó có 185.000 ha biển...

Khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo

Việt Nam được đánh giá là một trong các quốc gia dễ bị tổn thương và chịu nhiều tác động tiêu cực của BĐKH, ô nhiễm môi trường, nước biển dâng. Điều đó đặt ra nhiều thách thức đối với việc thực hiện các mục tiêu xoá đói giảm nghèo, các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và phát triển bền vững đất nước.

Thêm vào đó, công tác BVMT, quản lý tài nguyên biển và hải đảo của Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều thách thức: môi trường biển bị ô nhiễm; nguồn lợi thiên nhiên, đa dạng sinh học tiếp tục suy giảm; khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo còn chưa hiệu quả, thiếu bền vững. Ngoài ra, nhận thức của người dân về khai thác, sử dụng tài nguyên chưa cao, thói quen tiêu dùng sử dụng các sản phẩm nhựa một lần đã và đang đặt ra những sức ép to lớn với công tác quản lý, BVMT... Điều này đòi hỏi phải có những giải pháp ứng phó thiết thực và kịp thời.

Ngày 4/6/2023, tại Lễ phát động quốc gia Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, Tháng hành động vì môi trường, hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới, Ngày Đại dương Thế giới năm 2023, Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh kêu gọi các Bộ, ngành, cơ quan đoàn thể ở Trung ương, chính quyền địa phương, các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp hãy có những hành động thiết thực để giải quyết vấn đề ô nhiễm chất thải nhựa, góp phần BVMT, bảo vệ biển và đại dương; khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên biển và hải đảo.

Trong đó, tập trung thống nhất trong nhận thức và hành động để ứng xử có trách nhiệm với biển và đại dương theo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và luật pháp quốc tế; khắc phục và loại bỏ tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà coi nhẹ việc duy trì, BVMT, thúc đẩy hơn nữa việc phát triển cộng đồng văn minh sinh thái biển; coi đây là tiêu chuẩn về đạo đức, văn hóa của mỗi cơ quan, tổ chức, cộng đồng, doanh nghiệp và người dân.

Đồng thời, thực hiện quản lý, BVMT và phát triển bền vững biển và hải đảo, triển khai có hiệu quả các chiến lược, chính sách phù hợp để hạn chế rác thải nhựa đại dương, bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái biển... Ưu tiên đầu tư, đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực biển chất lượng cao.

Bên cạnh đó, tận dụng tối đa lợi thế để phát triển các ngành du lịch và dịch vụ biển để Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của thế giới; khai thác đồng bộ, hiệu quả các cảng biển và dịch vụ vận tải biển... Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức về biển đảo của Tổ quốc, về ý thức bảo vệ TN&MT biển...

Theo bà Ramla Khalidi, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam, sử dụng bền vững biển và đại dương sẽ là chìa khóa để xây dựng một tương lai thịnh vượng và bền vững cho người dân Việt Nam. Do đó, UNDP chia sẻ 3 mục tiêu mà Việt Nam cần hướng tới, đó là: Tăng cường nỗ lực chuyển đổi hướng tới một nền KTB bền vững (một phần thông qua việc đẩy nhanh quy hoạch không gian biển); tiếp tục tăng cường khả năng chống chịu của các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương (bằng cách trồng rừng ngập mặn, dựng nhà ở chống chịu bão, các hành động dự đoán và giảm thiểu rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng); thống nhất về các cam kết và hành động với sự tham gia của tất cả các bên liên quan bao gồm Chính phủ, khu vực tư nhân, cộng đồng, hộ gia đình và mọi cá nhân.

Trước đó, ngày 3/4/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-CP phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, BVMT biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Nghị quyết nêu rõ, mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tài nguyên biển và hải đảo được khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả để phát triển nhanh và bền vững các ngành KTB và khu vực ven biển, nhất là các lĩnh vực KTB chủ lực theo thứ tự ưu tiên: Du lịch và dịch vụ biển; kinh tế hàng hải; khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; nuôi trồng và khai thác hải sản; công nghiệp ven biển; năng lượng tái tạo và các ngành KTB mới; nâng cao đời sống và sinh kế cộng đồng.

Cùng với đó, ô nhiễm môi trường biển được kiểm soát, ngăn ngừa và giảm thiểu... Đến năm 2030, ở các đô thị ven biển, 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn môi trường; 100% khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô thị ven biển được quy hoạch, xây dựng theo hướng bền vững, sinh thái, thông minh, thích ứng với BĐKH, nước biển dâng, có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định về môi trường và sức tải môi trường biển, khả năng phục hồi, chống chịu của hệ sinh thái biển, đảo.

Đồng thời, quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo, tăng diện tích các khu bảo tồn biển, khu vực biển, ven biển được bảo tồn đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia, bao gồm các khu bảo tồn biển và ven biển; khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh sống, nơi cư trú, đường di cư của các loài thủy sản, các khu dự trữ sinh quyển, khu RAMSAR...; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.

Ứng phó hiệu quả với thiên tai, BĐKH và nước biển dâng dựa vào sử dụng bền vững tài nguyên và BVMT biển, hải đảo cùng với năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, BĐKH và tác động của nước biển dâng được tăng cường... Thiết lập hệ thống thông tin tổng hợp về tài nguyên, môi trường biển, đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật.

Theo TTXVN