Chính sách hỗ trợ đối với mầm non dân lập, tư thục ở địa bàn có khu công nghiệp, nơi có nhiều lao động làm việc tại khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh

Ngày 28-12, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 93/2021/QĐ-UBND quy định mức hỗ trợ đối với cơ sở giáo dục mầm non và giáo viên mầm non tại cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục ở địa bàn có khu công nghiệp, nơi có nhiều lao động và trợ cấp đối với trẻ em mầm non là con công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Theo đó, đối tượng áp dụng theo quyết định này là cơ sở giáo dục mầm non độc lập ở địa bàn có khu công nghiệp thuộc loại hình dân lập, tư thục đã được cấp có thẩm quyền cấp phép thành lập theo đúng quy định có từ 30% trẻ em là con công nhân, người lao động làm việc tại khu công nghiệp. Trẻ em đang học tại các cơ sở giáo dục mầm non thuộc loại hình dân lập, tư thục đã được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thành lập và hoạt động theo đúng quy định có cha hoặc mẹ hoặc người chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em là công nhân, người lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp được doanh nghiệp ký hợp đồng lao động theo quy định. Giáo viên mầm non đang làm việc tại cơ sở giáo dục mầm non thuộc loại hình dân lập, tư thục đã được cơ quan có thẩm quyền cấp phép thành lập và hoạt động theo quy định ở địa bàn có khu công nghiệp bảo đảm những điều kiện theo quy định.

Về mức hỗ trợ được quy định như sau: Đối với cơ sở giáo dục mầm non độc lập được hỗ trợ để trang bị cơ sở vật chất 1 lần, bao gồm: trang bị đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học theo danh mục quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và hỗ trợ kinh phí sửa chữa cơ sở vật chất để phục vụ trực tiếp cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em. Mức hỗ trợ là 20 triệu đồng/cơ sở giáo dục mầm non độc lập. Đối với trẻ em được hỗ trợ 160.000 đồng/trẻ/tháng. Thời gian hỗ trợ theo số tháng học thực tế, nhưng không quá 9 tháng/năm học. Đối với giáo viên được hỗ trợ 800.000 đồng/tháng. Mức hỗ trợ này nằm ngoài mức lương thỏa thuận giữa chủ cơ sở giáo dục mầm non dân lập, tư thục với giáo viên và không dùng tính đóng hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Thời gian hỗ trợ tính theo số tháng dạy thực tế, nhưng không quá 9 tháng/năm học. Trường hợp dạy dưới 15 ngày trong 1 tháng thì được tính ½ tháng; trường hợp, từ 15 ngày trở lên thì tính tròn 1 tháng.

Quyết định này được áp dụng từ năm học 2021-2022 trở đi và có hiệu lực kể từ ngày 7 tháng 1 năm 2022.