Cuối năm 1910, Bác Hồ (khi đó là Nguyễn Tất Thành) rời Trường Dục Thanh ở Phan Thiết vào Sài Gòn tiếp tục cuộc hành trình tìm đường cứu nước. Ngày đó phương tiện đi lại còn rất thô sơ. Xe lửa mới chỉ chạy loanh quanh Sài Gòn từ Chợ Cũ đi Tân Định và Chợ Cũ đi Chợ Lớn... Cả Sài Gòn lúc bấy giờ chỉ có chừng 5- 7 chiếc ô tô, vì vậy, 200 cây số từ Phan Thiết vào Sài Gòn, Bác vẫn phải đi bằng thuyền buồm.
Anh chị em ở Hội Liên Thành cho biết, ngày trước có nghe các cụ tiền bối nói từ Phan Thiết, Bác theo ghe bầu (loại thuyền lớn) chở nước mắm của Công ty Liên Thành - chuyến đó đến Vũng Tàu bị sóng to gió lớn, ghe không vào cửa được phải đậu ở Gành Rái. Bác đã lên bờ đi qua Bà Rịa lên Long Thành để đến Sài Gòn.
Bác Hồ tới Sài Gòn. Lúc đó, Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định còn tách riêng bởi nhiều ruộng, kinh rạch, ao hồ và đầm lầy. Tuy dân cư thưa thớt, chợ Bến Thành chưa xây xong, chợ Sài Gòn còn rất nhỏ, nhóm họp trên nền Tổng Ngân khố ở đường Nguyễn Huệ bây giờ, nhưng Sài Gòn đã có nước máy, có đèn điện. Nhà ga xe lửa nằm giữa đường Hàm Nghi. Trên các phố chủ yếu là xe ngựa gọi là “xe kiếng”, xe thổ mộ, xe song mã và xe kéo tay... Hải cảng Sài Gòn cho hạm thuyền 3 buồm hạng lớn và tàu thủy chạy bằng hơi nước mới xây dựng.
Tàu Admiral Latouche Tréville, nơi Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp
khi rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước tháng 6-1911.
Những năm đó, Sài Gòn là thành phố Viễn Đông tráng lệ của thực dân Pháp. Với Bác, đây vẫn là thành phố của bất công và nghèo đói. Về sau, trong những bài báo, diễn văn viết, nói ở nước ngoài, Người đã đơn cử rất nhiều trường hợp về cái gọi là khai hóa, là văn minh, là công lý của bọn thực dân ở thành phố này...
Đến Sài Gòn, đầu tiên Bác tìm đến nhà người anh em bạn dì của cụ Nghè Mô là ông Lê Văn Đạt tại xóm cầu Rạch Bần, nay là số nhà 185/1 đường Cô Bắc, khi ấy là vựa chiếu. Một thời gian sau, cụ Nghè Mô và ông Hồ Tá Bang đưa Bác đến ở nhà 1-2-3 đường Tecxa, Chợ Lớn, hồi ấy là trụ sở của Thương quán Liên Thành phân cuộc.
Những người kế tục của Công ty Liên Thành cho biết, ngày trước 3 gian nhà này chỉ là nhà một tầng, lợp ngói âm dương. Bác ở đây cho đến ngày xuống tàu. Sau ngày miền Nam giải phóng (tháng 4-1975), nơi đây được đổi thành nhà số 3 và 5 đường Châu Văn Liêm (Chợ Lớn), trong đó nhà số 5 được giữ làm di tích nơi Bác Hồ rời Sài Gòn xuống tàu ra đi tìm đường cứu nước (được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử ngày 16-11-1988).
Trong thời gian ở đây, Người thường đi thăm cụ thân sinh đang làm nghề bốc thuốc ở cầu Ông Lãnh. Các cụ ở Liên Thành kể lại rằng, tết năm đó thầy Thành nói: “Tôi về ăn tết với cha”. Thành phố Sài Gòn đã có một mùa xuân in đậm trong Bác. Mùa xuân đó Sài Gòn chưa có bình minh. Trong đêm đen nô lệ, chắc chắn Bác và cụ Phó bảng - thân sinh của Bác - cũng chỉ đón tết với lòng xót xa thương dân, thương nước.
Đầu tháng 3, Bác xin vào học ở trường dạy nghề mở gần Chợ Cũ - trường này đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Có phải Bác muốn có một cái nghề để ra đi không?
Đồng chí Hà Huy Giáp kể lại, có lần Bác nói: “Bác đâu có ý định học thợ, nhưng trong lúc lang thang để tìm cách sang phương Tây, mà có nơi cho mình học, có cái ăn là mình vô thôi”.
Bác học tại trường được 3 tháng. Trong ngót 100 ngày đó, Bác đã dành nhiều thời gian quan sát Sài Gòn. Cái gì đối với Bác cũng mới lạ, từ nhà cửa đến đèn điện, máy nước, xe cộ, chiếu bóng... nhưng điều lạ hơn cả là trong bối cảnh như vậy sao dân mình vẫn khổ sở và bị khinh rẻ. Phải làm gì để cứu dân, cứu nước? Trong một lần đến thăm cha, Bác được cụ Phó bảng dạy: “Tìm thăm cha là tốt, nhưng cái cần hơn vẫn là tìm đường cứu dân tộc”...
Suy nghĩ đúc kết những bước đi của các vị tiền bối, Bác khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Trần Quý Cáp… Các cụ đã giúp thêm cho Bác quyết tâm, ý chí và nghị lực. Nhưng Bác “không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào”.
Bác phân tích: Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, Bác nhận thấy điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương. Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Cụ Hoàng Hoa Thám thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến… (1)
Người thấy rõ và quyết định con đường nên đi. Đồng chí Hà Huy Giáp kể rằng, có lần Bác nói: “Cách mạng là con chim đại bàng có 2 cánh, một cánh vỗ ở các nước thuộc địa, một cánh vỗ ở các nước chính quốc. Có 2 cánh vỗ thì đại bàng mới bay được”. Trong đêm đen nô lệ của đất nước, Bác đã là cánh chim đại bàng - “cánh chim không mỏi”.
Khi quyết tâm ra đi, Bác rủ một người bạn:
- Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thực ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm... Anh muốn đi với tôi không?
Người bạn ngạc nhiên sửng sốt hỏi:
- Nhưng... lấy đâu ra tiền mà đi?
Bác giơ 2 bàn tay lên cả quyết:
- Đây, tiền đây. Chúng ta sẽ làm việc, ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ?
Trước lòng quyết tâm của Bác, anh bạn đã đồng ý, nhưng sau đó anh không đủ can đảm thực hiện lời hứa. (2)
Tháng 4-1862, Công ty Vận tải đường biển Hoàng gia Pháp Messageries Impériales (MI) bắt đầu hoạt động tuyến đường từ Pháp đi Sài Gòn - Hồng Công... Trụ sở của công ty ở Sài Gòn là ngôi nhà 3 tầng nằm ở hữu ngạn vàm rạch Bến Nghé (3), trên nóc có 2 con rồng quay đầu vào chầu mặt trăng theo kiểu “Lưỡng long chầu nguyệt”. Sau này (khoảng năm 1920), khi hãng MI đổi thành hãng Messageries Maritimes, mặt trăng được thay bằng phù hiệu của hãng có hình đầu ngựa, mỏ neo, vương miện, hai bên có 2 con rồng chầu, nhưng lại đặt đầu quay ra hai bên, bốn góc có 4 con cá hóa rồng chầu ra bốn hướng theo cung cách đình chùa Việt Nam. Một nhà báo Pháp viết rằng, đó là cách điệu của người Pháp để nói các con tàu ra đi từ xứ Á châu này. Coi mặt đặt tên, nhân dân ta gọi đó là Nhà Rồng. Tên gọi bến Nhà Rồng cũng xuất phát từ đó.
Bên này vàm rạch Bến Nghé có cột cờ Thủ Ngữ để làm mốc cho tàu buôn ra vào. Cột cờ dựng ở trước Sở thuế của cảng Sài Gòn (khi đó còn gọi là Sở Thủ ngự như tên gọi dưới thời Vua Tự Đức). Cũng như vậy, ngày 15-8-1862, tại Vũng Tàu, khánh thành ngọn hải đăng dẫn đường cho tàu vào cửa Cần Giờ.
Sau MI, có thêm hãng tàu Chargeurs Resunis (mới thành lập, chạy đường Pháp và Đông Dương từ năm 1901), chạy trên đường này. Hãng có đội tàu 7 chiếc. 6 tàu lớn chia nhau chạy các tuyến giữa hải cảng Pháp và Đông Dương. Chiếc Chợ Lớn nhỏ hơn, chạy bổ túc quanh năm. Từ Đông Dương đi Pháp có 2 nơi khởi hành: từ Hải Phòng vào ngày 27 mỗi tháng, từ Sài Gòn vào ngày 5 mỗi tháng. Hãng này có huy hiệu 5 ngôi sao nên người Việt Nam thường gọi là hãng Năm Sao. Tàu Amiral Latouche Tréville là một trong 7 chiếc tàu của hãng Năm Sao, do xưởng đóng tàu La Loire sản xuất ở vùng Saint Nazaire, hạ thủy ngày 21-3-1903, đăng ký tại cảng Le Havre năm 1904. Đây là một trong những tàu cỡ lớn đầu thế kỷ 20, vừa chở người vừa chở hàng. Hãng tàu Năm Sao có bến trong thương cảng Sài Gòn - ngày đó dài chừng 600m, nối tiếp với quân cảng kể từ công trường Mê Linh tới cầu Khánh Hội bên này rạch Bến Nghé, khi ấy gọi là Quai Francis Garnier, nay cũng là một phần đường Tôn Đức Thắng.
Thương cảng Sài Gòn năm 1911 khá tấp nập, trang bị đầy đủ và ở vào đầu mối giao thông rất thuận lợi, chỉ dài 600m mà có nhiều đại lộ châu đầu vô bến. Đó là các đường Paul Blanchy (nay là đường Hai Bà Trưng), Catinat (nay là đường Đồng Khởi), Charner (nay là đường Nguyễn Huệ), Krantz và Duperré (nay là đường Hàm Nghi). Nhà ga đường sắt đi Mỹ Tho và Phan Thiết đặt ở đầu đường Hàm Nghi tiếp cận với thương cảng. Nhà ga tàu hơi (tramway) cũng ở ngay đầu đường Nguyễn Huệ. Tàu hơi chạy dọc suốt thương cảng và quân cảng, một phía đi Gia Định rồi Hóc Môn, phía kia đi Chợ Lớn. Chợ Bến Thành (cũ) nằm gần đầu đường Nguyễn Huệ, nay là kho bạc. Qua thương cảng, khối lượng chuyên chở hành khách và hàng hóa của cảng ngày càng gia tăng (riêng lúa gạo, năm 1861 xuất khẩu 80.000 tấn, năm 1891 xuất khẩu 440.000 tấn, năm 1911 xuất khẩu trên 1,1 triệu tấn).
Thương cảng Sài Gòn khi ấy có 5 cầu tàu: 3 cầu tàu nhỏ ở đầu đường Đồng Khởi dành cho các hãng chuyên chở đường sông, 1 cầu tàu lớn ở đầu đường Nguyễn Huệ dành cho các tàu viễn dương và 1 cầu tàu nhỏ ở đầu đường Hàm Nghi dành cho hãng tàu người Hoa. Brébion đã mô tả Thương cảng Sài Gòn hồi 1911: “Trên bến Francis Garnier (nay là bến Bạch Đằng), phía bờ sông có nhiều loại cầu tàu chiếm chỗ. Một trong số cầu tàu lớn nhất là nơi cập bến các tàu lớn thuộc hãng Chargeurs Resunis (hãng Năm Sao).
Chúng ta có thể khẳng định bến đậu tàu Amiral Latouche Tréville là cầu tàu lớn của Thương cảng Sài Gòn nơi đầu đường Nguyễn Huệ. Đây là một vị trí khang trang và thoáng đãng hạng nhất thành phố: Nhìn vào đất liền qua đường Nguyễn Huệ rộng rãi thấy trụ sở Ủy ban Nhân dân thành phố (nhà Xã Tây cũ với kiến trúc đặc sắc ghi dấu một thời), nhìn sang phía sông thấy ngôi Nhà Rồng đồ sộ với dáng vẻ Âu Á pha trộn dễ gây ấn tượng.(4)
Sau này khi Chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra, ở Việt Nam là cuộc kháng chiến chống Pháp, hãng tàu Năm Sao không hoạt động ở Việt Nam và bến cảng bỏ phế. Các tàu bè ra vào chỉ cập cảng Nhà Rồng là chủ yếu. Đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Thương cảng Sài Gòn trở thành bến sông cho các thuyền dịch vụ và thành phố chỉ còn 1 thương cảng là bến Nhà Rồng. Do đó ngày nay chúng ta gọi Bác Hồ ra đi từ bến Nhà Rồng vẫn được, bởi vì bến cảng Nhà Rồng ngày nay là hiện thân tiêu biểu cho các thương cảng của Sài Gòn những năm đầu thế kỷ 20.
Những tháng đầu năm 1911, Bác tìm đến Thương cảng Sài Gòn để tìm hiểu, làm quen và kiếm việc làm. Công nhân bến cảng và các nhà máy thời đó thường đi guốc mộc, mặc áo bà ba hoặc áo bành tô bằng vải ka ki màu vàng nhạt.
Trong những hãng tàu ra vào đó, Bác làm quen được với một số người Việt Nam làm ở hãng Năm Sao, vốn chạy tuyến Sài Gòn- Đà Nẵng, Hải Phòng và đi Singapore, Cô-lôm-bô, Đoong-két, Boóc-đô, Mác-xây, Lơ Ha-vrơ, Po Xa-ít, Gi-bu-ti. Hai người “bồi” Việt Nam mà Bác Hồ quen là bác Nguyễn Văn Hùm và Bùi Văn Viên. Hai ông này cho Bác biết là hãng đang tuyển “bồi”. Bác và mấy người Việt Nam nữa xuống xin việc.
Trưa 2- 6- 1911, chiếc tàu Amiral Latouche Tréville của hãng Năm Sao từ Hải Phòng cập cảng Sài Gòn. Bác xuống tàu và gặp viên thuyền trưởng. Nhìn thân hình mảnh khảnh của Bác, thuyền trưởng hỏi:
- Anh có thể làm được việc gì?
- Tôi có thể làm bất cứ công việc gì- Bác đáp với lòng tự tin.
Nhìn thấy nét cương nghị và thông minh của Bác, viên thuyền trưởng mỉm cười (sau này biết tên ông ta là Lui E-du-a Mai-sen, quê ở miền Bắc nước Pháp):
- Được, tôi đồng ý nhận anh làm phụ bếp, sáng mai anh xuống đây nhận việc. Anh tên là gì?
Lúng túng một chút, Bác đáp:
- Văn Ba!
Trên tàu khi đó đã có một thủy thủ làm việc từ trước có tên là Nguyễn Văn Ba.
Ngày 3-6-1911, Bác chính thức xuống tàu làm phụ bếp. Đây là một trong những tàu lớn hồi đó vừa chở hàng, vừa chở khách. Theo hồ sơ còn lưu ở Bảo tàng hàng hải bên Pháp, tàu dài 124,1m, rộng 15,2m, chạy máy hơi nước, 2.800 mã lực, với tốc độ 13 hải lý/giờ, trọng tải 5.572 tấn và có đủ nhiên liệu để chạy một mạch 12.000 hải lý. Trong hồ sơ lưu còn có sổ lương và sổ thủy thủ. Lương tháng 6-1911 của Bác là 50 phơ-răng Pháp, trong khi những người bồi Pháp làm việc rất nhàn nhã lãnh lương gấp 3 lần lương của Bác.
Trưa 5-6-1911, con tàu Amiral Latouche Tréville đã rời bến sông Sài Gòn với 72 thủy thủ trên tàu. Sài Gòn hôm đó đã thay mặt đất nước tiễn Bác. Trong chuyến hành trình đầu tiên đó, Bác đến Singapore, Cô-lôm-bô, Po Xa-ít, rồi Đa-răng, Mác-xây và ngày 15-7, Bác đến Lơ Ha-vrơ, cảng chính ở miền Bắc nước Pháp.
Bác ra đi giữa mùa bão tố tháng 6 với một trái tim vĩ đại mang trọn tình yêu quê hương đất nước. Từ buổi trưa đó, Bác bước vào cuộc đời của một người lao động cực khổ. Trong tác phẩm “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, có kể lại lúc Bác Hồ làm thủy thủ trên tàu như sau: Mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng, quét dọn sạch sẽ nhà bếp lớn trên tàu, rồi đốt lửa trong các lò. Khi thì đi khuân than, rồi xuống hầm lấy rau, thịt, cá, nước đá... Công việc khá nặng nhọc, lại gặp nhiệt độ luôn thay đổi vì dưới bếp rất nóng, còn trong hầm thì rất lạnh. Đôi khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang, trong khi tàu chòng chành lắc lư rất nguy hiểm.
Xong công việc ấy, phải dọn cho chủ bếp Pháp ăn. Sau đấy, lặt rau, rửa nồi, chảo và đun lò lại. Công việc kéo dài suốt ngày.
Nhà bếp lo ăn cho cả 700- 800 người cả nhân viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn. Với những cái nồi cao quá, anh phải leo lên ghế để chùi nồi. Luôn luôn nghe tiếng:
- Ba, đem nước đây!
- Ba, dọn chảo đi!
- Ba, thêm than vào!
Suốt ngày anh Ba người đẫm hơi nước và mồ hôi, mình đầy bụi than. Người ta thấy anh Ba phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm cho xong mọi việc. Và hơn nữa, anh còn phải gọt cho xong đống củ cải và khoai tây... Mỗi ngày, đến 9 giờ tối, công việc mới xong. Anh Ba mệt lử. Nhưng trong khi chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba học hay viết đến khuya...
Một lần dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Sóng cao như những quả núi chồm lên, đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba lên bếp lại xuống hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu chòng chành dữ quá, anh phải buộc rổ rau vào dây sắt để kéo đi. Chuyến thứ 2, một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu, cả những rổ rau và anh Ba nữa. May là anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết...(5)
Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920.
Theo những bức thư của Bác gửi cho cụ Phó bảng thông qua nhà chức trách Anh còn lưu trong tài liệu mật thám Pháp, ngày 30-10-1911 Bác đã đến Cô-lôm-bô và ngày 15-12-1912 Người đến New York. Một nhà sử học Mỹ nổi tiếng, dành gần như cả cuộc đời để nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã cung cấp cho chúng ta tư liệu rất quý khi Bác Hồ đến Hoa Kỳ và đi thăm Tượng Nữ thần tự do. Bà đã lật xem những trang ghi cảm tưởng của mọi chính khách khi đến thăm và chiêm ngưỡng Tượng Nữ thần tự do.
Bà viết: “Tất cả họ đều ghi cảm tưởng bằng những lời ca ngợi ngôi sao tỏa sáng trên vòng nguyệt quế là ánh sáng tự do... Duy chỉ có Nguyễn Tất Thành nhìn xuống dưới chân tượng và ghi: Ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng như người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới”.
Từ ngày 5-6-1911, Bác đã trải qua bao gian nan, cực khổ của các nghề “bồi” ở dưới tàu, “bồi” ở khách sạn, làm nghề rửa ảnh, vẽ sơn mài… và làm nghề cào tuyết cho một trường học để sống, để đi, để hiểu và hoạt động cách mạng.
Tám năm sau, tháng 6-1919, Cảng sông Sài Gòn lại chuyển về nhân dân Việt Nam bản Yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam mà Bác đã đại diện gởi đến Hội nghị Verseille, văn kiện đó như một quả bom nổ giữa thủ đô của nước chính quốc, là tiếng thét của hàng triệu người Việt Nam. Bác đã bỏ tiền ra để in tài liệu này gởi đi các nơi và gởi về Việt Nam. Nhân dân ta biết Nguyễn Ái Quốc từ đó. Nhiều nhà Nho yêu nước ở Việt Nam đã nói: “Bầu trời Việt Nam đã xuất hiện một vì sao mới, là Nguyễn Ái Quốc”.
Từ ngày 5-6-1911, Bác rời Sài Gòn và đã đi qua gần đủ năm châu, bốn biển trên thế giới và tìm ra con đường giải phóng dân tộc, để mùa xuân của 30 năm sau (tháng 2-1941), Bác trở về Pắc Pó, lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sau đó khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Và rồi ngày 30-4-1975, con cháu Bác với chiến dịch mang tên Bác, với đường lối và tư tưởng quyết thắng của Bác đã tiến vào giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Ý chí quyết tâm và lòng tin của Bác trước sau như một. Ngày Bác ra đi chỉ có 2 bàn tay. Khi Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng chỉ có 2 bàn tay. Trong bài thơ “Pắc Pó hùng vĩ”, Bác viết:
“Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin, kia núi Mác,
Hai tay xây dựng một sơn hà”.
Tất nhiên 2 bàn tay mà Bác nói đây là 2 bàn tay của ngót 25 triệu đồng bào Việt Nam (6). Bác tin tuyệt đối ở nhân dân, tin ở sự “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” (thơ Bác Hồ năm 1941) của tất cả mọi người Việt Nam.
Sài Gòn, thành phố phía Nam của Tổ quốc, nơi Bác tập làm quen với cách sống của thành thị trước lúc ra đi, nơi đã in sâu vào tâm trí Bác nhiều ấn tượng sâu sắc về chế độ thực dân và về những người dân nghèo bị áp bức. Nếu có dịp đọc lại những bài viết của Bác trong những năm 1920 trên các báo Người Cùng Khổ (Le Paria), Đời Sống Công Nhân (La Vie Ouvrière), Nhân Đạo (L’Humanité) xuất bản ở Pháp, cũng như tác phẩm “Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp” của Bác, chúng ta sẽ thấy Bác luôn luôn nhắc đến Sài Gòn.
Bác theo dõi từng bước đi, từng nhịp thở của nhân dân Sài Gòn ngay từ lúc Bác mới xa Tổ quốc. Bác lên án “bọn người Âu mắng phụ nữ Việt Nam là “con đĩ, con bú dù” và “ngay giữa chợ Bến Thành Sài Gòn- mà người ta bảo là một thành phố Pháp, bọn gác chợ người Âu cũng không ngần ngại dùng roi gân bò, dùi cui đánh phụ nữ bản xứ để bắt họ tránh khỏi làm nghẽn lối”. Trong bài “Khai hóa giết người” đăng trên báo Le Paria ngày 1-8-1922, Bác đã tố cáo trường hợp bọn Pháp giết chết anh công nhân ở Sở hỏa xa Sài Gòn một cách cực kỳ dã man. Nhiều và rất nhiều những đơn cử như thế của Bác về Sài Gòn trên báo chí ở Pháp.
Ở xa Tổ quốc, Bác biết những vụ bạo động, những cuộc biểu tình đổ máu của người Việt Nam phản đối việc bị bắt đi lính cho Pháp ở Biên Hòa, ở Sài Gòn. Bác biết rõ tháng 11-1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn vì bị bớt lương nên đã quyết định bãi công đấu tranh (Nguyễn Ái Quốc- Bản án chủ nghĩa thực dân Pháp). Bác biết và Bác hiểu rõ tâm tư của mọi người dân lao động Sài Gòn. Vì suốt thời gian Bác lưu lại ở Sài Gòn, Bác cũng là người lao động sống cực khổ.
Sau này, khi làm Chủ tịch nước, mỗi lần tiếp các đại biểu Sài Gòn về thăm, Bác thường nhắc về những kỷ niệm lúc Bác ở Sài Gòn. Bác nhớ rõ cảnh những người nghèo không nhà không cửa sống nhờ trên hè phố và các móng cầu. Một lần khi nữ anh hùng Tạ Thị Kiều về thăm Bác, Bác có nhắc lại một kỷ niệm nhỏ khi Bác ở Sài Gòn:
- Sài Gòn hồi đó có “nhà che cơm tấm”, Bác hay ăn lắm, họ nấu cơm tấm rất giỏi, không nhão mà ăn với tép rang hoặc tôm kho tàu rất ngon, lại rẻ tiền.
Hôm đó Bác nói: “Bác nhớ miền Nam, nhớ Sài Gòn lắm. Bác mong miền Nam mau giải phóng để Bác vô thăm”.
Sài Gòn, miền Nam đã luôn luôn trong tim Bác và hơn thế đã để lại những rung động đầu đời của một tình yêu tuổi đôi mươi.
Sài Gòn có vinh dự tiễn Bác ra đi. Sài Gòn mấy chục năm qua gan vàng dạ sắt, chiến đấu anh hùng. Sài Gòn xứng đáng được mang tên Bác. Sài Gòn đã từng đi trước về sau, ngày nay thành phố đang nỗ lực xây dựng để luôn luôn là trung tâm kinh tế văn hóa xã hội đi trước và cùng cả nước đi lên với ý chí quyết tâm thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sài Gòn đã và đang xứng đáng là thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng.
(1) và (2) Theo “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.
(3) Vàm rạch: cửa sông Bến Nghé.
(4) Theo tài liệu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu.
(5) Theo “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” của Trần Dân Tiên.
(6) Năm 1945, dân số Việt Nam là 25 triệu người.
Nguồn Báo SGGP