Thông cáo đặc biệt

Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vô cùng thương tiếc báo tin:

Ðồng chí Ðỗ Mười sinh ngày 02-02-1917 tại xã Ðông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội; thường trú tại số nhà 11, phố Phạm Ðình Hổ, phường Phạm Ðình Hổ, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1936; vào Ðảng Cộng sản Việt Nam tháng 6-1939. Nguyên: Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa II; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa III, IV, V, VI, VII, VIII; Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị khóa IV; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Thường trực Ban Bí thư khóa VI; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ tháng 6-1988 đến tháng 6-1991); Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (từ tháng 6-1991 đến tháng 12-1997); Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam (từ năm 1997 đến năm 2000). Ðại biểu Quốc hội các khóa II, IV, V, VI, VII, VIII và IX.

Sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù đã được Ðảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, đồng chí đã từ trần hồi 23 giờ 12 phút, ngày 01-10-2018 (tức ngày 22-8 năm Mậu Tuất), tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hà Nội.

Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí đã có nhiều đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và dân tộc. Ðồng chí được Ðảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huy hiệu 80 năm tuổi Ðảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác.

Ðồng chí mất đi là một tổn thất to lớn đối với Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Ðể tỏ lòng tưởng nhớ đồng chí Ðỗ Mười, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức tang lễ đồng chí Ðỗ Mười với nghi thức Quốc tang.

BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ÐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,

QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM,

CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM,

CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM,

ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

TÓM TẮT TIỂU SỬ

ĐỒNG CHÍ ĐỖ MƯỜI, NGUYÊN TỔNG BÍ THƯ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đồng chí Ðỗ Mười (tên khai sinh là Nguyễn Duy Cống), sinh ngày 02-02-1917; quê quán: Xã Ðông Mỹ, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Thường trú tại số nhà 11, phố Phạm Ðình Hổ, phường Phạm Ðình Hổ, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1936; vào Ðảng tháng 6-1939.

Năm 1936, đồng chí tham gia phong trào Mặt trận Bình dân.

Năm 1937, đồng chí tham gia Tổ chức Ái hữu thợ mỏ Hòn Gai.

Năm 1938, đồng chí về quê hoạt động, vào Công hội, vận động phong trào ủng hộ Liên Xô; tháng 6-1939, đồng chí được kết nạp vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương (nay là Ðảng Cộng sản Việt Nam).

Năm 1941, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù, giam ở Nhà tù Hà Ðông và Nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.

Năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, đồng chí vượt ngục Hỏa Lò, bắt liên lạc với Ðảng và tiếp tục hoạt động, được phân công về tham gia Ban khởi nghĩa Tỉnh ủy Hà Ðông, phụ trách phong trào cách mạng huyện Ứng Hòa và Mỹ Ðức, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Hà Ðông.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Ðông.

Ðầu năm 1946, đồng chí làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam. Cuối năm 1946, làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh Nam Ðịnh.

Năm 1947 - 1949, đồng chí làm Khu ủy viên Khu III, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình, Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình.

Năm 1950, đồng chí làm Phó Bí thư Liên Khu ủy, kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu III, Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu III.

Năm 1951 - 1954, đồng chí làm Bí thư Khu ủy khu Tả Ngạn Sông Hồng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính và Chính ủy Quân khu Tả Ngạn Sông Hồng.

Năm 1955, đồng chí chỉ đạo tiếp quản Khu 300 ngày, Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố Hải Phòng. Tháng 3-1955, đồng chí được bầu bổ sung Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng.

Năm 1956, đồng chí làm Thứ trưởng Bộ Thương nghiệp.

Năm 1958, đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Nội thương.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Ðảng (tháng 9-1960), đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng; giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội thương.

Năm 1967 - 1968, đồng chí làm Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước, Trưởng phái đoàn Thanh tra Chính phủ.

Năm 1969 - 1973, đồng chí làm Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước. Năm 1973, đồng chí làm Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Phó Chủ tịch Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương và chống phong tỏa Cảng Hải Phòng.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Ðảng (tháng 12-1976), đồng chí được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, và được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, giữ chức vụ Phó Thủ tướng Chính phủ, phụ trách các khối: Xây dựng cơ bản, Công nghiệp, Vật tư, Cải tạo công thương nghiệp và phân phối lưu thông.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Ðảng (tháng 3-1982), đồng chí tiếp tục được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng và được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Phó Thủ tướng Chính phủ), phụ trách các khối: Xây dựng cơ bản, Công nghiệp, Vật tư.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Ðảng (tháng 12-1986), đồng chí tiếp tục được bầu lại làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng và được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu vào Bộ Chính trị, được phân công làm Thường trực Ban Bí thư Trung ương Ðảng.

Tháng 6-1988, đồng chí được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ).

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Ðảng (tháng 6-1991), đồng chí tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng và được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu vào Bộ Chính trị và giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng; Bí thư Quân ủy Trung ương.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Ðảng (tháng 6-1996), đồng chí tiếp tục được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng và được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng bầu vào Bộ Chính trị và giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng; Bí thư Quân ủy Trung ương.

Tháng 12-1997, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ tư khóa VIII, đồng chí xin thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, thôi giữ chức Tổng Bí thư; được Ban Chấp hành Trung ương Ðảng suy tôn làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đến năm 2000.

Ðồng chí là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa II; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa III, IV, V, VI, VII, VIII; Ủy viên Bộ Chính trị dự khuyết khóa IV; Ủy viên Bộ Chính trị các khóa V, VI, VII, VIII; Thường trực Ban Bí thư khóa VI; Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ tháng 6-1988 đến tháng 6-1991); Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (từ tháng 6-1991 đến tháng 12-1997). Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (từ năm 1997 đến năm 2000). Ðại biểu Quốc hội các khóa II, IV, V, VI, VII, VIII và IX.

Do có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Ðảng, của dân tộc, đồng chí được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng; Huy hiệu 80 năm tuổi Ðảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.