Mục đích cao nhất của đổi mới là vì nhân dân

Việc nhìn lại 30 năm đổi mới có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, không chỉ củng cố niềm tin, thống nhất nhận thức, ý chí hành động của toàn Đảng, toàn dân mà còn giúp chúng ta nhận thấy những vấn đề lý luận và thực tiễn lớn đang đặt ra trên con đường phát triển của đất nước.

 
GS. TS. Hoàng Chí Bảo. Ảnh: VGP/Phương Liên

Đánh giá tổng quát 30 năm đổi mới là một trong những nội dung quan trọng trong Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng, GS. TS. Hoàng Chí Bảo, chuyên gia cao cấp, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương Đảng khóa XI đã phân tích về những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới cũng như những nhìn nhận sâu sắc về những hạn chế, yếu kém cần tập trung giải quyết.

Kết quả có ý nghĩa lịch sử quan trọng

Đường lối đổi mới của Đảng là kết quả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, bám sát thực tiễn, vừa làm vừa tổng kết, phấn đấu gian khổ của Đảng và nhân dân ta. Nói về quá trình phát triển đường lối đổi mới của Đảng, GS. TS. Hoàng Chí Bảo khẳng định, sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và tổ chức thực hiện cho đến nay sắp tròn 30 năm. Đại hội lần thứ XII của Đảng vào đầu năm 2016 sẽ tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn của 30 năm đổi mới. Đây là một nội dung rất quan trọng giúp chúng ta nhìn lại giá trị, ý nghĩa những bài học kinh nghiệm của Đảng và nhân dân ta đã thực hiện trong 30 năm qua, đánh giá những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết để từ đó tìm ra những giải pháp ở tầm chiến lược để khắc phục, đưa đất nước tiếp tục phát triển trong thời kỳ mới, đạt được những mục tiêu phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước.

Việc nhìn lại 30 năm đổi mới có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, nó không chỉ củng cố niềm tin, thống nhất nhận thức, ý chí hành động của toàn Đảng, toàn dân mà còn giúp chúng ta nhận thấy những vấn đề lý luận và thực tiễn lớn đang đặt ra trên con đường phát triển của đất nước khi chúng ta phát triển trong một bối cảnh thế giới, quốc tế diễn biến rất phức tạp mà như Đảng ta nói là “có những đột biến khó lường” đồng thời trong nước cũng xuất hiện những vấn đề trên con đường phát triển cần phải tập trung nỗ lực và những nguồn lực để giải quyết mà xét một cách sâu xa, tất cả tùy thuộc vào năng lực và sức chiến đấu của Đảng, vào sức mạnh đoàn kết, dân chủ, đồng thuận của cả nước, cả dân tộc. Đây là một nhân tố rất quan trọng, là một động lực mãnh liệt của đổi mới.

Đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI, tháng 12/1986. Đó là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới, Đại hội mở đầu cho thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Các nhà nghiên cứu coi Đại hội VI như một mốc son chói lọi trong biên niên sử của Đảng ta. Nhìn lại bối cảnh đất nước trong thời kỳ đó mới thấy hết được tầm vóc, giá trị của đổi mới. Đổi mới hay là chết, tồn tại hay không tồn tại?

Cuộc khủng hoảng giá, lương, tiền trầm trọng ở nước ta vào bên thềm của đổi mới (năm 1985) đã làm cho nền kinh tế nước ta gần như suy kiệt, nhờ có đổi mới mới ra khỏi cuộc khủng hoảng đó. Đổi mới của Việt Nam bắt đầu từ Đại hội VI có quyết định đến tầm chiến lược của Đảng ta, một quyết sách chiến lược, đón kịp và tận dụng được thời cơ, lại dũng cảm vượt qua những thách thức và những nguy cơ trên con đường phát triển. Đổi mới của Việt Nam được coi như một cuộc cách mạng trong phát triển, mang tầm vóc của một cuộc cách mạng vì nó cải biến toàn diện, triệt để, sâu sắc các lĩnh vực của đời sống mà bắt đầu từ đổi mới tư duy. Có đổi mới tư duy, thay đổi cách nghĩ thì mới thay đổi cách làm, cách tổ chức hoạt động.

Đảng ta lại nhấn mạnh là trong đổi mới tư duy đặc biệt nhấn mạnh đến tư duy kinh tế. Đấy là một sự lựa chọn rất đúng đắn bởi có đổi mới tư duy kinh tế ta mới có thể chuyển sang được nền kinh tế thị trường mà lúc đầu còn là thử nghiệm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, còn đến bây giờ là đã phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đổi mới tư duy rất quan trọng, nó góp phần thay đổi cách nhìn nhận nền kinh tế, cho ta thấy tầm quan trọng của lợi ích vật chất và lợi ích kinh tế, mà bây giờ là động lực của sự phát triển.

Nhờ đổi mới tư duy trong kinh tế ta mới có thể tập trung giải phóng sức sản xuất, tháo gỡ những cản trở trói buộc làm cho lực lượng sản xuất chậm phát triển, lạc hậu. Có giải phóng lực lượng sản xuất mới có cơ sở để xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với yêu cầu phát triển của Đảng ta, phù hợp với mục tiêu, lý tưởng của CNXH.

Đảng ta nhấn mạnh là đổi mới toàn diện các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối nội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng, thực hiện cho được quy luật là xây dựng CNXH với bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trên một nội dung toàn diện như vậy, Đảng ta lại nhấn mạnh đổi mới kinh tế là trọng tâm. Trước hết phải đổi mới kinh tế vì có đổi mới kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường mới có điều kiện làm cho xã hội năng động, nền kinh tế ra khỏi sự trì trệ và vượt qua được những khủng hoảng và lạm phát “phi mã” lúc bấy giờ. Có làm cho kinh tế phát triển thì mới có điều kiện để cải thiện đời sống nhân dân. Có cải thiện được đời sống cho nhân dân, nhân dân được thụ hưởng lợi ích của đổi mới thì họ mới ủng hộ đổi mới, nhập cuộc cùng đổi mới.

Thực tiễn đã cho thấy nhân dân ta chính là đồng tác giả của công cuộc đổi mới vĩ đại này. Đổi mới bắt đầu từ cơ sở, từ những sáng kiến của người dân, từ nông dân, từ các hợp tác xã… Ta nhớ lại 30 năm trước đây, có những khái niệm như “khoán chui”, “phá rào”, “vượt rào”… tức là vượt qua những cản trở của cơ chế cũ lạc hậu, những chính sách đã bất cập để “tự mình cứu lấy mình”, nói như lời cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh “phải tự cứu lấy mình trước khi trời cứu” là như vậy.

Nhân dân và nông dân ở cơ sở là một điểm xuất phát quan trọng của đổi mới. Quê hương của đổi mới chính là mảnh đất nông thôn. Nó gắn liền với những quyết định của Đảng ta như những chỉ thị về “Khoán”, từ chỉ thị của Ban Bí thư gọi là “Khoán 100” trước đổi mới, đến quyết định của Bộ Chính trị về “Khoán 10” chính là những quyết định của Đảng và Nhà nước ta đã đáp ứng kịp thời những yêu cầu bức xúc của xã hội, của nhân dân.

Đảng ta còn nhấn mạnh là từ thực tiễn, đổi mới kinh tế phải đạt đến kết quả và thành công ở một mức nhất định thì sẽ tiến tới đổi mới hệ thống chính trị một cách đồng bộ, thận trọng, từng bước, vững chắc. Bởi vì liên quan đến vấn đề ổn định chính trị-xã hội là tiền đề, là điều kiện của đổi mới. Đây là sự ổn định tích cực chứ không phải ổn định để quay trở về trạng thái trì trệ, bảo thủ. Ổn định tích cực chỉ được đo lường bởi sự tăng trưởng kinh tế, bằng sự cải thiện đời sống của nhân dân…

Những tư duy như vậy ngay từ đầu đổi mới cho thấy Đảng ta đã cân nhắc các phương diện, các quan hệ và tính đến tình hình, bối cảnh trong nước cũng như thế giới để đi tới kết luận của thực tiễn đổi mới 30 năm qua: Ổn định là tiền đề, là điều kiện; Đổi mới là phương thức, là con đường; Phát triển và phát triển bền vững là mục đích. Đó là quan hệ tổng quát trong các mối quan hệ lớn. Quan hệ giữa ổn định, đổi mới, phát triển là một quan hệ tổng quát bao trùm các lĩnh vực.

Thực tiễn càng ngày càng chứng minh mục tiêu của phát triển bền vững là phát triển con người, nâng cao vai trò, vị trí của nhân tố con người. Đứng về mặt xã hội thì đây là xuất phát từ lợi ích của người dân. Đổi mới chỉ vì dân. Mục đích cao nhất của đổi mới là đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần ngày càng nâng cao cho nhân dân ta. Nhân dân chính là chủ thể sáng tạo của thực tiễn đổi mới, là chủ thể sáng tạo của tiến trình phát triển nói chung trong lịch sử Việt Nam.

Tóm lại, phát triển của Việt Nam qua đổi mới là một sự phát triển bền vững. Muốn thực hiện được phát triển bền vững thì phải chú trọng vào những chiều cạnh: Kinh tế, xã hội, môi trường cũng như phải chú trọng vào sức mạnh của đổi mới thể chế chính trị, chế độ chính trị, trong đó có vai trò của dân chủ, nhất là phải chống được một cách hiệu quả tình trạng mà Đảng ta từ lâu gọi là quốc nạn: Vấn đề tham nhũng, nạn quan liêu – gây tổn hại nhất cho lợi ích chung của cộng đồng và của người dân. Có thể nói, 30 năm đổi mới vừa qua ta đã đạt được những bước ngoặt lớn, mất 10 năm đầu (1986-1996) để giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội để đi vào ổn định và phát triển, từ đó chuyển sang thời kỳ phát triển mới: Đẩy mạnh CNH-HĐH. Mất 10 năm tiếp theo (1996-2006), chúng ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển trở thành một nước phát triển trung bình của thế giới, dù còn là trung bình thấp. Đặc biệt là chúng ta đã hội nhập quốc tế, Việt Nam đã có mặt trong đời sống thế giới với thế và lực ngày càng mạnh hơn, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng rõ hơn. Thế giới đã ca ngợi Việt Nam trong thành tựu “xóa đói, giảm nghèo” ở thời kỳ đổi mới là “những bước đi ngoạn mục”.

Sự kết hợp lý tưởng ý Đảng, lòng dân và phép nước

Khái quát về đặc điểm của 30 năm đổi mới, một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam, GS. TS. Hoàng Chí Bảo nhấn mạnh, qua thực tế, Đảng ta đã ngày càng khẳng định rằng đổi mới của Việt Nam là đổi mới có nguyên tắc, đổi mới nhưng kiên trì con đường, mục tiêu là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây cũng chính là một trong những luận điểm then chốt trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta để đưa đổi mới đúng hướng.

Có 3 quan điểm nền tảng trong đổi mới. Một là đổi mới phải kiên định sự phát triển, độc lập dân tộc và CNXH. Thứ hai, đổi mới phải trên nền tảng tư tưởng là Chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là kim chỉ nam hành động của cách mạng Việt Nam, trước hết là nền tảng tư tưởng của Đảng vì Đảng ở vị trí lãnh đạo và cầm quyền; không giữ vững nền tảng tư tưởng thì đổi mới có nguy cơ chệch hướng. Điểm thứ ba rất quan trọng: Phải giữ vững, nâng cao vai trò lãnh đạo, đảm bảo địa vị cầm quyền của Đảng trong sự nghiệp đổi mới. Đảng gắn liền với nhân dân, bảo vệ Đảng chính là bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân, vì nhân dân mà Đảng phải xây dựng mình thành Đảng chân chính cách mạng, Đảng trong sạch, vững mạnh. Những tư tưởng đó đã được khẳng định trong thực tiễn đổi mới.

Đổi mới của Việt Nam đã diễn ra trên tinh thần là có bước đi thích hợp, đổi mới từ nhận thức, tư tưởng, tư duy, đến đổi mới kinh tế, đổi mới mô hình phát triển, đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới các chính sách… Đối với quan hệ đối ngoại, Đảng ta đưa ra nhiều thông điệp: Việt Nam mong muốn làm bạn với tất cả các nước; Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; Việt Nam mở rộng hợp tác song phương và đa phương trên cơ sở tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập của nhau, cùng có lợi và không can thiệp vào nội bộ của nước khác…

Sinh thời, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có một tổng kết rất quan trọng: Đổi mới của Việt Nam là kết hợp đến mức lý tưởng giữa ý Đảng với lòng dân và phép nước.

Từ thực tiễn cuộc sống, Đảng thấu hiểu những nhu cầu, tâm trạng, đòi hỏi của nhân dân để ra đời những lý luận và quyết sách đổi mới. Phép nước là thể chế hóa những quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, thành luật pháp để đi vào cuộc sống một cách có hiệu lực. Lòng dân, ý dân và cả sức dân luôn luôn là lực lượng mạnh mẽ, đông đảo, sáng tạo ra tất cả những gì mà ngày nay ta gọi là thành tựu của đổi mới. Nhân dân còn chính là đối tượng thụ hưởng tất cả những thành tựu của đổi mới đem lại. Điều ấy làm cho nhân dân gắn bó mật thiết với Đảng, Nhà nước, tạo thành khối đồng thuận toàn dân tộc và tạo nên sức mạnh của đất nước.

Nhìn lại công cuộc đổi mới sau 30 năm, có thể thấy một trong những đặc điểm quan trọng của đổi mới, đặc điểm mà không phải nước nào cũng có khi so sánh với cải tổ của Liên Xô, Đông Âu đã đổ vỡ hay cải cách của Trung Quốc sớm hơn ta 10 năm. Đổi mới là khái niệm chúng ta tìm thấy trong thực tiễn và bây giờ đã trở thành một thuật ngữ rất quen thuộc trong chính trị học thế giới. Nhiều nước đã sử dụng thuật ngữ này. Nó đi từ ngôn ngữ đời sống, trở thành một khái niệm lý luận và bây giờ trở thành một từ vựng của chính trị học.

Trong rất nhiều đặc điểm của đổi mới, tôi đặc biệt muốn nhấn mạnh đặc điểm: Đổi mới của Việt Nam kết hợp đổi mới từ dưới lên với đổi mới từ trên xuống. Đổi mới từ dưới lên là đổi mới từ cơ sở, là địa bàn sinh sống của người dân, chính nhân dân có nhu cầu bức xúc về đổi mới, để làm cho cuộc sống của mình tốt hơn và làm cho đất nước phát triển hơn. Đổi mới từ dưới lên lại bắt gặp đồng thuận đổi mới từ trên xuống, từ các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng. Cuộc gặp gỡ này đã tạo nên sự đồng thuận và làm cho sự nghiệp đổi mới của Việt Nam được mọi người gắn bó, tìm thấy lợi ích của chính mình trong sự nghiệp chung đó. Điều này cho thấy sức mạnh của đổi mới Việt Nam là sức mạnh của dân chủ, sức mạnh của đoàn kết, của đồng thuận, của chia sẻ giữa lãnh đạo với người dân…

Đổi mới của Việt Nam xuất phát từ một triết lý bắt nguồn sâu xa từ tư tưởng Hồ Chí Minh lấy dân làm gốc, dân là sức mạnh, dân là chủ thể. Nếu phát huy được sức mạnh của người dân thì sẽ có nguồn lực vô tận để thực hiện các mục tiêu đặt ra.

Đổi mới của Việt Nam mang tính chất toàn diện, nhưng trước hết là kinh tế, sau đó là chính trị, trong đó cốt lõi là hệ thống chính trị. Khái niệm dân chủ và hệ thống chính trị chính là sản phẩm của đổi mới. Từ Hội nghị Trung ương 6 Khóa VI mới bắt đầu xuất hiện khái niệm này. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng mới bàn rất kỹ và hệ thống quan điểm lý luận về dân chủ, nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị của Việt Nam. Chính đổi mới của Việt Nam càng mở rộng trên quy mô chiều sâu càng nhận thức ra tầm quan trọng của vấn đề văn hóa.

Nguồn lực sâu xa của đổi mới chính là văn hóa, cả văn hóa vật chất, cả văn hóa tinh thần, lấy con người làm trung tâm, lấy giá trị văn hóa con người là cao nhất. Đóy là những bước phát triển của đổi mới, trình tự của đổi mới, phương thức, cách đi của đổi mới ở Việt Nam. Ta mới hiểu vì sao cải tổ thì thất bại ở Liên Xô và Đông Âu nhưng đổi mới ở Việt Nam thì lại thành công chính là bởi đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, phù hợp với nhu cầu thực tiễn của Việt Nam và phù hợp với nhu cầu của thời đại.

Trong đổi mới ta mới thấy một điều rất đáng quý, chính là sự cấu kết, đồng lòng của dân với Đảng, của dân với Nhà nước, của nhân dân với chế độ như là một giá trị bền vững, thiêng liêng.

Nếu nhìn một cách tổng quát, chỉ bằng một mệnh đề có thể khái quát về thành tựu của 30 năm đổi mới: Chính trị, xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng, tiến bộ, công bằng xã hội từng bước được thực hiện, đoàn kết, đồng thuận xã hội được củng cố và phát huy, Đảng vẫn giữ vững vai trò cầm quyền của mình trong đổi mới và thực sự có vai trò dẫn dắt nhân dân ta tiến tới mục tiêu phát triển.

30 năm đổi mới đánh dấu sự phát triển trưởng thành rất quan trọng của Đảng ta về lý luận, về tư duy lý luận. Từ thực tiễn đổi mới, Đảng đã hình thành được hệ thống các quan điểm lý luận về CNXH.

Vượt qua những “điểm nghẽn” để phát triển

GS. TS. Hoàng Chí Bảo cho rằng, từ thực tiễn đổi mới, Đảng đã hình thành được một hệ thống lý luận về CNXH. Đảng ta đã tổng kết từ Cương lĩnh năm 1991 đến Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 để hình thành được 8 đặc trưng của xã hội XHCN Việt Nam, 8 phương hướng để xây dựng CNXH ở Việt Nam, nhất là trong thời kỳ quá độ và xác định được 8 mối quan hệ lớn cần giải quyết đúng trong thực tiễn đổi mới.

Tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Không phải là một nền kinh tế thị trường bất kỳ nào mà là kinh tế thị trường định hướng XHCN, nghĩa là phải có Đảng đảm bảo chính trị cho sự phát triển kinh tế, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị mà cốt lõi là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội để đem đến công bằng cho người dân, cho các chủ thể kinh tế và làm cho mỗi người đều tìm thấy triển vọng phát triển của mình trong một xã hội phát triển năng động, sáng tạo và có năng suất lao động ngày một cao lên. CNXH mà chúng ta xây dựng còn phải là CNXH có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với con người là giá trị cao nhất.

Nước ta quá độ lên CNXH không qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên thời kỳ quá độ là một vấn đề lý luận rất then chốt trong tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới. Chúng ta cũng nhận rõ những nhiệm vụ lịch sử cần phải giải quyết để có thể xây dựng một đất nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trở thành một đòi hỏi tất yếu của những nước quá độ không qua chủ nghĩa tư bản. Chúng ta đặc biệt nhấn mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà phải vượt qua những “điểm nghẽn” của nó về thể chế, về hạ tầng kỹ thuật công nghệ, về chất lượng nguồn nhân lực để đảm bảo cho kinh tế thị trường này vừa giữ được định hướng XHCN vừa phát triển thành hiện đại, nhất là khi chúng ta đã hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng ra các lĩnh vực khác ngoài kinh tế.

Thực tiễn cho thấy đổi mới là rất phù hợp với quy luật phát triển, đổi mới xuất phát từ đòi hỏi khách quan, đổi mới vừa đón kịp thời cơ, vừa chấp nhận những thách thức và biết cách dũng cảm vượt qua thách thức đó như cảnh báo của Đảng ta về 4 nguy cơ trong phát triển mà Đảng ta nêu lên rất sớm (từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII năm 1994): Nguy cơ rơi vào tụt hậu và lạc hậu, nguy cơ chệch hướng XHCN, nguy cơ rơi vào quan liêu, tham nhũng, nguy cơ về diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc. Bốn nguy cơ ấy được dự báo cách đây hơn 20 năm vẫn còn nguyên giá trị. Bây giờ trên cơ sở thực tiễn của 30 năm đổi mới, chúng ta vẫn tiếp tục vượt qua những “điểm nghẽn” của phát triển, vượt qua cả 4 nguy cơ để đưa đất nước phát triển bền vững, để vẫn đảm bảo cho được hệ mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nếu đạt được những giá trị như thế và đem lại lợi ích thiết thực cho người dân thì đây là một công cuộc xây dựng đất nước rất có triển vọng, hợp với lòng dân. Có thể kết luận khái quát là qua thực tiễn 30 năm đổi mới của Việt Nam nếu làm đúng quy luật, nếu làm đúng lòng dân, hợp với xu thế của thời đại thì chúng ta sẽ thắng lợi. Thực tiễn chứng minh rằng chúng ta đã và đang làm được như vậy. Dĩ nhiên, những hạn chế, yếu kém cũng còn nhiều và với phương châm của Đảng là nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, càng phải nhìn kỹ vào những khiếm khuyết, yếu kém để vượt qua một cách chủ động, nhất là huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, mở rộng những không gian và những điều kiện để nhân dân phát huy năng lực sáng tạo cùng với Đảng vượt qua khó khăn, thách thức.

Trong thời gian sắp tới, để có thể vượt qua những yếu kém, hạn chế, đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến về phía trước, GS. TS. Hoàng Chí Bảo cho rằng, có mấy điểm cần lưu ý. Thứ nhất, phải coi xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, kết hợp giữa xây dựng với chỉnh đốn, làm cho Đảng thực sự là Đảng cách mạng chân chính như chỉ dẫn của Hồ Chí Minh là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ then chốt.

Đây cũng là cách tiếp tục thực hiện một nghị quyết quan trọng của Đảng đã nêu lên là “giải quyết những vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng” (Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI). Nước ta chỉ có một đảng cầm quyền nên sức mạnh của Đảng, năng lực, trí tuệ của Đảng, uy tín, ảnh hưởng của Đảng trong dân và bản lĩnh cầm quyền của Đảng đóng vai trò quyết định sự thành công của đổi mới.

Thứ hai là phải tập trung phát triển kinh tế để làm cho nền kinh tế nước ta thực sự là một nền kinh tế thị trường hiện đại và có mặt xứng đáng trên trường quốc tế trong bối cảnh phát triển rất phức tạp như hiện nay. Một sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể với nhau thì chỉ có thực lực, sức mạnh kinh tế mới giải quyết được.

Cụ thể, phải tập trung tiếp tục thực hiện cải cách cấu trúc kinh tế, đặc biệt là kinh tế Nhà nước để làm cho kinh tế có hiệu quả cao, có năng suất xã hội cao thì mới có điều kiện tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống dân sinh. Trong đó còn có những vấn đề cần phải vượt qua như nợ công, nợ xấu đang đến một giới hạn đáng lo ngại. Phải là một nền kinh tế hiện đại dựa trên sức mạnh của khoa học, công nghệ tiên tiến, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân.Phát triển kinh tế gắn với giải quyết việc làm mới có thể giải quyết được mục tiêu chăm lo cho đời sống người dân.

Hơn nữa, đây là một vấn đề cũng rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Ta vừa chú trọng phát triển, hoàn thiện nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng XHCN nhưng đồng thời phải chủ động đón trước xu thế của thế giới là kinh tế tri thức, một nền kinh tế dựa trên trí tuệ, dựa trên khoa học công nghệ cao chứ không phải là một nền kinh tế chỉ khai thác công nghệ thô, khai thác tự nhiên; cũng không phải là một nền kinh tế gia công cho các nước mà là nền kinh tế của chính mình. Vì vậy Đảng mới nhấn mạnh là vừa phát triển nền kinh tế thị trường, vừa chủ động nền kinh tế tri thức, lại vừa xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ để không lệ thuộc, phụ thuộc quá nhiều vào nước khác. Như vậy giải pháp kinh tế là giải pháp cốt yếu, chiến lược.

Người dân bằng cuộc sống của chính mình cũng chờ đợi rất nhiều vào những cải cách chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tiến về phía trước, tăng tốc độ tăng trưởng, tránh được những trì trệ, những tụt hậu so với thế giới và chống được cả lãng phí, thất thoát. Lãng phí, thất thoát sẽ làm mất đi rất nhiều nguồn lực có thể đầu tư phát triển kinh tế.

Giải pháp thứ ba là phải tập trung giải quyết các vấn đề xã hội, nằm trong chương trình tổng thể quốc gia, quản lý phát triển xã hội. Giải quyết các vấn đề xã hội là giải quyết các vấn đề bức xúc như việc làm, đời sống, nhà ở, giao thông, giáo dục, y tế… Muốn giải quyết các vấn đề xã hội phải có nguồn lực vật chất tương xứng. Muốn giải quyết các vấn đề xã hội phải tập trung vào đổi mới hệ thống chính sách xã hội và xây dựng một hệ thống an sinh xã hội có hiệu quả, nhất là hai mấu chốt giáo dục và y tế - vấn đề liên quan đến từng gia đình, tác động vào việc tạo ra nguồn lực mới của phát triển.

Hiện nay dù chúng ta đạt được những thành tựu về kinh tế nhưng do những yếu kém trong quản lý và do nhận thức của chúng ta chưa đầy đủ nên trong những năm vừa qua đã để xảy ra tình trạng đạo đức suy thoái, tội phạm, tệ nạn gia tăng…

Vì vậy, 5 năm tới, vấn đề không thể bỏ qua là vấn đề văn hóa và con người, chú trọng việc chấn hưng đạo đức, chấn hưng giáo dục, xây dựng lối sống lành mạnh, lương thiện, sống vì cộng đồng, khuyến khích và nâng đỡ những người có tài, có đức để cống hiến cho xã hội, đồng thời chăm lo đến tất cả cộng đồng, nhất là những đối tượng khó khăn.

Nhìn toàn cảnh các vấn đề từ xây dựng Đảng, đến phát triển kinh tế, phát triển các vấn đề xã hội, xây dựng văn hóa và con người là những quan tâm mà hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang đặt ra để đáp ứng được thực tiễn nhu cầu phát triển. Nếu giải quyết được những vấn đề này mới có tiềm lực và thực lực để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Nói cách là kết hợp sức mạnh nội lực bên trong với khai thác có hiệu quả các ngoại lực bên ngoài thì chúng ta sẽ có điều kiện để phát triển. Đấy cũng chính là đáp ứng những chờ đợi, mong mỏi của toàn dân.

Nguồn chinhphu.vn