Chương trình hành động của Tỉnh ủy: Thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

LTS: Ngày 27-4, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Báo điện tử Ninh Thuận trân trọng giới thiệu đến bạn đọc toàn văn chương trình trên.

Ngày 25-4-2011, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TW về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; để thực hiện có kết quả Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xây dựng Chương trình hành động với những nội dung cơ bản như sau:

I- Thực trạng tài nguyên khoáng sản và công nghiệp khai khoáng

Theo tài liệu địa chất đã được công bố, trên địa bàn tỉnh ta tuy đa dạng các loại khoáng sản nhưng chủ yếu có quy mô nhỏ trừ một số loại khoáng sản như titan, đá ốp lát và đá xây dựng có trữ lượng lớn; công tác khai thác, chế biến khoáng sản chủ yếu phục vụ nhu cầu nội tỉnh. Đến cuối năm 2011, đã có 20 giấy phép thăm dò và 102 giấy phép khai thác khoáng sản còn hiệu lực, chủ yếu tập trung khai thác các loại khoáng sản như: đá ốp lát công suất khai thác 108.000 m3/năm, khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường công suất khai thác gần 4 triệu m3/năm, titan 1.260 tấn/năm, nước khoáng 725 m3/ngày… Hoạt động chế biến khoáng sản mới tập trung khai thác chế biến đá ốp lát với công suất chế biến 650.000m2/năm, các mỏ khai thác đá chế biến các sản phẩm phục vụ xây dựng với tổng công suất 2,7 triệu m3/năm.

Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh đã được các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp cùng với ngành chức năng quan tâm chỉ đạo, nhất là tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật khoáng sản, xây dựng các quy hoạch có liên quan đến quản lý, khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, khoáng sản của địa phương; nhận thức về bảo vệ tài nguyên khoáng sản của cán bộ đảng viên và đa số người dân đã được nâng lên. Các hoạt động (thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản) ngày càng đi vào nề nếp, cơ bản tuân thủ các quy định của pháp luật về khoáng sản và pháp luật khác có liên quan; các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động khoáng sản hầu hết đã lập hồ sơ xin cấp có thẩm quyền cấp giấy phép theo quy định của pháp luật; trong quá trình hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản đã chú trọng đầu tư công nghệ khai thác, chế biến làm tăng giá trị khoáng sản. Nguồn thu cho ngân sách từ hoạt động khoáng sản tăng hàng năm: (năm 2009 là 6,0 tỷ đồng, năm 2011 là 16,7 tỷ đồng) đồng thời đáp ứng được nhu cầu về vật liệu xây dựng để phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương.

Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về khoáng sản và hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh còn có một số hạn chế, yếu kém sau:

- Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản chưa được sâu kỹ, rộng khắp và thường xuyên; hình thức tuyên truyền chưa đa dạng, phù hợp với từng đối tượng, địa bàn dân cư, dẫn đến sự hiểu biết pháp luật về khoáng sản trong một bộ phận nhân dân còn hạn chế, ý thức chấp hành pháp luật của một số tổ chức, cá nhân chưa nghiêm. Trách nhiệm quản lý bảo vệ tài nguyên khoáng sản cấp cơ sở có nơi còn buông lỏng.

- Công tác hậu kiểm sau khi được cấp phép khai thác khoáng sản và công tác thanh tra, kiểm tra chưa được kịp thời và thường xuyên, xử lý vi phạm trong kiểm tra không triệt để, kém hiệu quả dẫn đến công tác bảo vệ môi trường, an toàn lao động, thực hiện nghĩa vụ tài chính trong hoạt động khoáng sản của các tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép chưa được chấp hành nghiêm; tình trạng khai thác trái phép tuy ở mức độ nhỏ lẻ nhưng vẫn còn diễn ra.

- Tổ chức xây dựng quy hoạch khoáng sản làm vật liệu xây dựng trên địa bàn tỉnh tiến hành còn chậm, chất lượng còn thấp; một số loại khoáng sản có trữ lượng khá lớn nhưng chưa được quy hoạch; việc khoanh định khu vực cấm và tạm thời cấm hoạt động khoáng sản chưa được thực hiện chặt chẽ.

Những hạn chế, yếu kém trên có nhiều nguyên nhân, trong đó về khách quan: pháp luật về khoáng sản nói riêng và pháp luật khác có liên quan đến hoạt động khoáng sản như đất đai, môi trường, đầu tư, kinh doanh, xây dựng, thuế… vẫn còn nhiều bất cập, thường xuyên điều chỉnh, bổ sung gây khó khăn cho việc tổ chức thực hiện. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về khoáng sản chưa tập trung về một đầu mối, khi thực thi nhiệm vụ có sự chồng chéo giữa các ngành.

Về chủ quan: nhận thức về công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản một số cấp ủy, chính quyền các địa phương chưa sâu kỹ. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoáng sản từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã còn thiếu về số lượng, hạn chế về chuyên môn và năng lực quản lý. Số cán bộ kỹ thuật đủ tiêu chuẩn để làm giám đốc mỏ theo quy định của pháp luật rất ít…

II- Định hướng, mục tiêu phát triển khoáng sản và công nghiệp khai thác khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030

1- Định hướng

Tập trung làm tốt công tác điều tra thăm dò, đánh giá đúng trữ lượng các loại khoáng sản chủ yếu trên địa bàn tỉnh như: titan sa khoáng, đá ốp lát, đá xây dựng… để xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn sử dụng hiệu quả các loại tài nguyên khoáng sản phục vụ tốt nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương và tham gia xuất khẩu.

Khai thác tài nguyên khoáng sản trên cơ sở quy hoạch có tính đến nhu cầu hiện tại cũng như lâu dài của tỉnh, tính đến sự phát triển của khoa học, công nghệ và nhu cầu khoáng sản trong tương lai. Tổ chức khai thác và chế biến theo quy mô công nghiệp với công nghệ chế biến tiên tiến gắn bảo đảm môi trường, bảo vệ cảnh quan, di tích lịch sử, văn hoá, đi đôi với bảo đảm an ninh, quốc phòng, để đạt hiệu quả kinh tế cao.

2- Mục tiêu

- Nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong tỉnh về khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, vai trò, tầm quan trọng của khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đối với nền kinh tế nên phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hết sức hợp lý và có hiệu quả cao.

- Tổ chức rà soát, điều tra, khảo sát xây dựng quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản; trong đó, tập trung đánh giá chi tiết tiềm năng trữ lượng khoáng sản, định hướng quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản và giải pháp thực hiện; xây dựng cơ sở dữ liệu tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh.

- Hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản phải áp dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường; đầu tư cải tạo công nghệ, thiết bị đối với các mỏ đang khai thác, chế biến khoáng sản nhằm thu hồi tối đa khoáng sản và bảo đảm an toàn lao động, giảm ô nhiễm tới môi trường.

- Cung ứng ổn định nguyên liệu khoáng sản cho các cơ sở sản xuất công nghiệp và cơ bản đáp ứng vật liệu xây dựng thông thường cho các dự án xây dựng trên địa bàn tỉnh.

III- Nhiệm vụ và giải pháp

1- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về pháp luật tài nguyên khoáng sản

- Các cấp uỷ Đảng tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Ban Thường vụ tỉnh uỷ về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đồng thời xây dựng kế hoạch cụ thể, phối hợp để tổ chức thực hiện.

- Tăng cường phổ biến, quán triệt pháp luật về khoáng sản nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản và các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực khoáng sản về sử dụng khoáng sản hợp lý, triệt để tiết kiệm. Việc quản lý, bảo vệ, khai thác phải hết sức chặt chẽ theo quy hoạch, thực sự có hiệu quả cao.

2- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về khoáng sản

- Tổ chức thực hiện tốt Luật Khoáng sản và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản của Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân tỉnh nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoáng sản trên địa bàn tỉnh.

- Đến hết năm 2013 phải hoàn thành việc tổ chức xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, sử dụng khoáng sản của địa phương theo quy định của Chính phủ và phù hợp với quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản chung của cả nước; xác định kế hoạch thăm dò, khai thác cụ thể đối với từng loại khoáng sản theo giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; lựa chọn một số loại khoáng sản, khu vực khoáng sản có điều kiện thuận lợi để đầu tư thăm dò, làm cơ sở thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Đồng thời hoàn thành việc khoanh định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt khu vực cấm hoạt động khoáng sản và khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản.

- Chủ động khoanh định các khu vực khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ trên địa bàn tỉnh để đề nghị Bộ Tài nguyên và môi trường bàn giao cho tỉnh quản lý và cấp phép theo quy định.

- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác cấp phép hoạt động khoáng sản; đồng thời tăng cường công tác hậu kiểm việc thực hiện giấy phép khai thác khoáng sản, thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ môi trường trong hoạt động khoáng sản. Xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có sai phạm theo quy định của pháp luật.

- Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản ở địa phương; tăng cường nhân lực, đầu tư thiết bị để nâng cao năng lực quản lý nhà nước về khoáng sản ở các cấp. Thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về khoáng sản cho cán bộ làm công tác quản lý khoáng sản ở địa phương.

3- Cơ chế, chính sách trong lĩnh vực khoáng sản

- Cơ chế và chính sách phát triển công nghiệp khai khoáng.

+ Các tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép thăm dò khoáng sản phải tiến hành thăm dò, xác định tất cả các loại khoáng sản có trong khu vực; khi khai thác phải thu hồi tối đa các loại khoáng sản có ích; sử dụng khoáng sản tiết kiệm, hiệu quả, kinh tế. Kết thúc khai thác phải thực hiện công tác đóng cửa mỏ, phục hồi môi trường khu vực khai thác theo đúng quy định của Luật Khoáng sản.

+ Không cấp giấy phép hoạt động khoáng sản cho tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh, liên kết với nước ngoài trong hoạt động khai thác đối với khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của Uỷ ban nhân dân tỉnh.

+ Chấm dứt các dự án khai thác khoáng sản bán sản phẩm thô hoặc chỉ qua sơ chế; ưu tiên các dự án khai thác gắn liền với chế biến sâu tại tỉnh; các dự án chế biến khoáng sản phải áp dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường; khuyến khích các dự án khai thác, chế biến quặng nghèo, có công nghệ chế biến phức tạp hoặc lạc hậu.

+ Không phân nhỏ khu vực khoáng sản có thể đầu tư khai thác có hiệu quả ở quy mô lớn để cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản cho nhiều tổ chức, cá nhân khai thác manh mún, kém hiệu quả.

+ Thực hiện cơ chế đấu giá quyền khai thác khoáng sản theo quy định của Luật Khoáng sản đối với khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp giấy phép của UBND tỉnh, phù hợp với đặc điểm của loại khoáng sản ở địa phương, bảo đảm lợi ích của nhà nước.

- Cơ chế đầu tư, chính sách tài chính

+ Đầu tư bằng ngân sách nhà nước để điều tra, khảo sát, xây dựng quy hoạch khoáng sản bảo đảm chất lượng, khả thi và phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh; bố trí nguồn ngân sách của tỉnh để thực hiện thăm dò một số mỏ khoáng sản phục vụ đấu giá quyền khai thác khoáng sản.

+ Xây dựng quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản, bảo đảm lợi ích của Nhà nước phù hợp với đặc điểm từng loại khoáng sản khai thác trên địa bàn tỉnh.

+ Rà soát, xây dựng giá thành khoáng sản để đảm bảo thu đúng, thu đủ các loại thuế, phí trong hoạt động khai thác khoáng sản và làm cơ sở xác định giá sàn trong đấu giá quyền khai thác khoáng sản.

+ Công tác xác định đúng giá trị tài nguyên khoáng sản khai thác được thực hiện hàng năm; điều chỉnh kịp thời, hợp lý giá tính thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường và các loại thuế khác liên quan đến hoạt động khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước; đảm bảo lợi ích hài hoà giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân nơi có khoáng sản được khai thác.

+ Phân bổ kịp thời, bảo đảm tỷ lệ theo quy định từ nguồn thu hoạt động khoáng sản cho cấp huyện và xã nhằm thực hiện tốt công tác bảo vệ tài nguyên khoáng sản thuộc địa bàn quản lý, bảo vệ môi trường khu vực nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến.

IV- Tổ chức thực hiện

1- Các cấp uỷ đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn có trách nhiệm tổ chức học tập, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng trong cán bộ đảng viên và nhân dân về các nội dung cơ bản của Nghị quyết số 02-NQ/TW, ngày 25/4/20011 của Bộ Chính trị, Luật Khoáng sản và Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.

2- Ban cán sự Đảng UBND tỉnh chỉ đạo xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Chỉ đạo các ngành, địa phương triển khai thực hiện, thường xuyên kiểm tra. Chấn chỉnh các sai sót; tổ chức sơ, tổng kết kịp thời để rút kinh nghiệm chỉ đạo đạt được những mục tiêu đề ra.

3- Căn cứ Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và các văn bản hướng dẫn của UBND tỉnh, các cấp ủy đảng xây dựng kế hoạch, chỉ đạo thực hiện phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.

4- Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ đạo xây dựng kế hoạch giám sát các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản trên địa bàn tỉnh.

5- Ban cán sự Đảng UBND tỉnh chủ trì phối hợp với Văn phòng Tỉnh ủy và các Ban xây dựng Đảng theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức, định kỳ hàng năm, 5 năm báo cáo kết quả thực hiện và đề xuất Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Chỉ đạo đảm bảo thắng lợi các nội dung đề ra trong Chương trình hành động.