Bàn giải pháp thu hút nhân tài tái khởi động dự án điện hạt nhân

Trong trường hợp tái triển khai cả 2 dự án nhà máy điện hạt nhân (Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, công suất 2x2.000 MW), nhu cần nhân lực tương ứng sẽ là 2.400 người. Yêu cầu về thời gian đào tạo cũng như kinh nghiệm thực tiễn của một số vị trí quan trọng trong nhà máy điện hạt nhân có thể phải từ 5-10 năm.

 Ngày 2/1/2025, Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị "Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ chương trình điện hạt nhân" dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên.

Thiếu cả về số lượng và chất lượng

Báo cáo tại hội nghị, ông Lý Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương) cho biết, hiện nguồn nhân lực khoa học và công nghệ (KH&CN) về điện hạt nhân của Việt Nam đang thiếu cả về số lượng và chất lượng, nhất là các nhà khoa học, kỹ thuật đầu đàn. Hiện số nhân lực (KH&CN) về điện hạt nhân làm việc chủ yếu trong các cơ quan của Bộ Khoa học và Công nghệ, một số trường đại học, Viện nghiên cứu và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).

Bên cạnh đó, số lượng giảng viên đào tạo lĩnh vực hạt nhân còn ít; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, giảng dạy thiếu và lạc hậu, nên hoạt động đào tạo và phát triển nhân lực chuyên ngành hạt nhân còn rất hạn chế cả về số lượng và chất lượng.

Ngoài nhân lực có chuyên môn trực tiếp liên quan đến điện hạt nhân (như công nghệ hạt nhân, công nghệ lò phản ứng,…) thì một lực lượng đáng kể (chiếm hơn 50%) nhân lực phục vụ cho dự án nhà máy điện hạt nhân thuộc các ngành, lĩnh vực khác, như: Cơ khí, hóa chất, vật liệu, điện, điện tử, điều khiển tự động, môi trường,… Tuy nhiên, các cơ sở giáo dục và đào tạo trong nước có liên quan chưa có kinh nghiệm cũng như sự quan tâm đến đào tạo nhân lực phục vụ chương trình điện hạt nhân.

Bộ Công Thương tổ chức Hội nghị "Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ chương trình điện hạt nhân" dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên - Ảnh: Báo Công Thương

Theo báo cáo của EVN, giai đoạn đến 2017 (trước khi dừng thực hiện chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận theo Nghị quyết số 31/2016/NQ-QH của Quốc hội), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cử tổng cộng 429 sinh viên đi học các chuyên ngành liên quan đến điện hạt nhân tại các trường đại học của Liên Bang Nga, trong đó có 80 sinh viên là người Ninh Thuận; EVN đã cử tổng cộng 31 sinh viên đi học các chuyên ngành liên quan đến điện hạt nhân, cử đi đào tạo Lớp cán bộ khung gồm 24 kỹ sư tại Nhật Bản, đã làm việc với ROSATOM để xây dựng kế hoạch đào tạo chi tiết cho Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1.

"Tuy nhiên, hiện chưa có tài liệu rà soát, thống kê cụ thể về tình hình thực tế hiện nay đối với số nhân lực đã được đào tạo nêu trên. Nhìn chung chỉ một số ít trong số nhân lực nêu trên hiện đang làm việc tại EVN, còn phần đông làm việc ở nước ngoài hoặc chuyển sang các ngành, nghề khác", Vụ trưởng Lý Quốc Hùng thông tin.

Toàn cảnh hội nghị

Phải đào tạo từ 5-10 năm

Theo khuyến cáo của Tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Tập đoàn Điện lực Pháp (EDF), Tập đoàn ATOMSTROYEXPORT của Liên bang Nga và một số cơ quan về điện hạt nhân khác, nhu cầu nhân lực cho tổ chức vận hành một nhà máy điện hạt nhân với 2 tổ máy, công suất khoảng 2x1.000 MWe (2.000 MWe) cần khoảng 600-1.200 người có trình độ từ trung cấp đến đại học, thuộc các chuyên ngành khác nhau.

Yêu cầu về thời gian đào tạo cũng như kinh nghiệm thực tiễn của một số vị trí quan trọng trong nhà máy điện hạt nhân có thể phải từ 5-10 năm.

Ông Lý Quốc Hùng cho hay, trong điều kiện Việt Nam, để đảm bảo tiếp nhận chuyển giao công nghệ, vận hành, duy tu, bảo dưỡng nhà máy an toàn, thì cần khoảng 1.200 người cho các vị trí như: Kiểm soát an toàn và bảo vệ bức xạ, quản lý dự án, quản lý và lãnh đạo nhà máy, vận hành khai thác - điều hành các lò, bảo trì và hỗ trợ kỹ thuật và các dịch vụ khác…

Như vậy, trong trường hợp tái triển khai cả 2 dự án nhà máy điện hạt nhân (Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, công suất 2x2.000 MW), nhu cần nhân lực tương ứng sẽ là 2.400 người.

Ngoài ra, kinh nghiệm của một số nước có ngành hạt nhân phát triển cho thấy, ngoài số nhân lực phục vụ trực tiếp cho nhà máy điện hạt nhân nêu trên còn cần khoảng 350 người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các chuyên ngành luật và pháp quy hạt nhân, các chuyên gia nghiên cứu và phát triển (chuyên gia R&D), các chuyên gia chu trình nhiên liệu,... phục vụ nghiên cứu, quản lí, vận hành, khai thác, đảm bảo an toàn cho nhà máy điện hạt nhân.

Mặt khác, số lượng nhân lực nêu trên chưa tính đến nhu cầu nhân lực cho quản lý nhà nước, nghiên cứu viên tại các viện nghiên cứu và đội ngũ giảng viên trong các cơ sở giáo dục. Nếu tính trung bình mỗi 12 nhân lực lao động trong ngành điện hạt nhân có tương ứng 1 nghiên cứu viên; 20 sinh viên cần có 1 giảng viên, tổng nhu cầu nhân lực cho nhóm này sẽ khoảng 250 người.

Báo cáo cũng chỉ ra các chuyên ngành cần đào tạo cho chương trình điện hạt nhân theo kinh nghiệm của một số trường đại học tại các nước có ngành KH&CN hạt nhân phát triển gồm: Điện hạt nhân; An toàn bức xạ; Kỹ thuật hạt nhân; Vật lý hạt nhân; Quy hoạch; Cơ khí; Điện; Môi trường; Luật; Kinh tế; Xây dựng và một số ngành khác.

Cần nhân lực lĩnh vực hóa học hạt nhân

PGS. TS Đinh Văn Châu, Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho biết, về đào tạo nhân lực cho lĩnh vực hạt nhân, cách đây 15 năm, Thủ tướng đã có Quyết định phê duyệt Đề án "Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử". Trường Đại học Điện lực là một trong 6 cơ sở đào tạo được tham gia vào đề án và đã tổ chức triển khai các hoạt động đào tạo kỹ sư về điện hạt nhân.

"Từ năm 2010 - 2016, chúng tôi đã đào tạo kỹ sư điện hạt nhân trong lĩnh vực, mã ngành công nghệ kỹ thuật điện, điện tử. Đến năm 2018, chúng tôi đã phát triển trở thành ngành kỹ thuật hạt nhân riêng cho trường", PGS.TS Đinh Văn Châu cho biết.

Để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho biết, các trường, viện căn cứ theo thế mạnh của những ngành đào tạo có liên quan. Hiện nay, Trường Đại học Điện lực đã đào tạo được khoảng 188 kỹ sư về ngành điện hạt nhân. Tuy nhiên, nhiều học viên trong số đó đã chuyển sang ngành nghề khác, trong khi một số người vẫn ở lại nước ngoài học tập.

"Tôi đề nghị Trường Đại học Điện lực phối hợp cùng với Vụ Tổ chức cán bộ (Bộ Công Thương) để tập hợp, tổng kết các đơn vị có liên quan đến toàn bộ vấn đề nhân lực đã được đào tạo về lĩnh vực hạt nhân trong nước cũng như đang công tác tại nước ngoài. Chúng tôi sẽ xây dựng mạng lưới, kêu gọi, giúp đỡ cũng như tạo điều kiện thuận lợi để họ về tham gia vào các trường đại học. Đồng thời, tham gia trực tiếp quản lý dự án, vận hành dự án cho dự án điện hạt nhân", PGS.TS Đinh Văn Châu cho biết.

Góp ý thêm, TS. Vũ Đức Bình, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì cho hay, hiện nay, trường có 16 ngành đào tạo đại học và sau đại học, trong đó, có ngành vật lý hạt nhân. Tuy nhà trường chưa đào tạo điện hạt nhân, nhưng các ngành có liên quan giống như các trường là ngành cơ khí; cơ khí chế tạo; kỹ thuật điện, điện tử; công nghệ kỹ thuật điều khiển tự động hóa; công nghệ thông tin, quản trị kinh doanh và một số ngành cũng tương đồng với một số trường đại học ở Việt Nam.

Theo TS. Vũ Đức Bình, phát triển nhân lực ngành hóa học trong lĩnh vực điện hạt nhân là nhiệm vụ rất quan trọng để đảm bảo vận hành an toàn, hiệu quả các ngành nghề điện hạt nhân. Cụ thể như về nước và hơi nước trong lò phản ứng hạt nhân, cần có nhân lực kiểm soát các chỉ số liên quan đến sự ăn mòn hóa học và tích tụ phóng xạ. Về vật liệu sử dụng trong môi trường bức xạ hạt nhân, cần được xử lý và bảo vệ chống ăn mòn. Với chất thải phóng xạ, có nguồn gốc từ nguyên nhiên liệu, vật nhân đã qua sử dụng, cần được xử lý hoặc tái chế.

Đồng thời, việc kiểm soát chất lượng nhiên liệu, vật liệu hạt nhân cần nhân lực có chuyên môn về kỹ thuật phân tích hóa chất. Trong nhà máy điện hạt nhân, việc kiểm soát an toàn hóa chất rất cần người có năng lực chuyên môn về hóa học để phòng ngừa và ứng phó với các sự cố hóa học, đảm bảo tốt nhất bảo vệ môi trường và giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra.

"Phòng thí nghiệm hóa học cá nhân cần người có năng lực thực hành và phân tích các mẫu phóng xạ", TS Vũ Đức Bình cho biết.

Trong điều kiện Việt Nam, để đảm bảo tiếp nhận chuyển giao công nghệ, vận hành, duy tu, bảo dưỡng nhà máy điện hạt nhân an toàn cần khoảng 1.200 người - Ảnh: AFP

Còn theo TS. Nguyễn Thị Nguyên, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Công nghiệp Việt - Hung, Bộ Công Thương cần tổ chức thêm nhiều hội thảo, diễn đàn và các sự kiện để làm truyền thông, tác động tới giới trẻ. "Chúng ta đầu tư vào nguồn nhân lực dài hạn và trong mỗi một nhà trường, từ cán bộ, công nhân viên tới học sinh, sinh viên, đều sẽ trở thành một kênh truyền thông", TS. Nguyễn Thị Nguyên nhận định.

Góp ý thêm, TS. Trần Hoàng Long - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp - kiến nghị, Bộ Công Thương sẽ hỗ trợ, giới thiệu cho nhà trường tham gia vào những dự án liên quan đến đầu tư cơ sở vật chất, cùng hợp tác với doanh nghiệp, tham gia vào các phòng thí nghiệm. Bên cạnh đó, các trường đại học cùng nhau chia sẻ về nguồn lực, cả về con người, chuyên gia, tài liệu, học liệu, phối hợp công tác giảng dạy.

Việc phát triển nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mang tính chiến lược và có ý nghĩa quyết định đến thành công của dự án nhà máy điện hạt nhân, đáp ứng mục tiêu an toàn, hiệu quả và bền vững.

6 nhóm giải pháp thu hút nhân tài

Để phát triển nguồn nhân lực cho chương trình điện hạt nhân, Bộ Công Thương đề xuất 6 nhóm giải pháp:

Thứ nhất, xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu về điện hạt nhân tại các trường đại học. Chương trình đào tạo cần được xây dựng bài bản theo hướng hiện đại, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành, trong đó có sự hỗ trợ thông qua hợp tác quốc tế với cơ sở giáo dục của các nước dự kiến sẽ hỗ trợ về mặt kỹ thuật, công nghệ cho dự án điện hạt nhân trong thời gian tới.

Thứ hai, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về đào tạo và nghiên cứu với các quốc gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực điện hạt nhân, như: Nga, Nhật Bản, Pháp, Mỹ,… thông qua việc tham gia vào các chương trình đào tạo quốc tế, chương trình trao đổi sinh viên, nghiên cứu sinh, hội thảo, hội nghị chuyên ngành, hợp tác nghiên cứu để trao đổi kiến thức và kinh nghiệm trong việc vận hành và quản lý an toàn lò phản ứng, nâng cao trình độ chuyên môn và mở rộng mối quan hệ quốc tế.

Thứ ba, rà soát nhân lực về điện hạt nhân hiện có tại EVN và các trường đại học, viện nghiên cứu thuộc Bộ; xây dựng kế hoạch để đào tạo mới, đào tại lại, đào tạo chuyên sâu nhằm hình thành đội ngũ chuyên gia đầu đàn trong lĩnh vực điện hạt nhân. Về lâu dài, việc tổ chức các khóa đào tạo nâng cao thường xuyên cho nhân lực làm việc trong ngành (về công nghệ mới, quy định an toàn hạt nhân, và quản lý rủi ro,…) là rất cần thiết, nhằm cập nhật những kiến thức mới nhất, từ đó nâng cao hiệu quả công việc và đảm bảo an toàn.

Thứ tư, đầu tư nâng cao năng lực cho các viện nghiên cứu thuộc Bộ nhằm hình thành lĩnh vực nghiên cứu và phát triển về điện hạt nhân và các công nghệ, kỹ thuật liên quan điện hạt nhân. Các viện nghiên cứu thuộc Bộ phải được chuẩn bị nguồn lực cả về con người và cơ sở vật chất để có thể tham gia hỗ trợ EVN tiếp thu, áp dụng công nghệ, kỹ thuật từ đối tác nước ngoài ngay từ những giai đoạn rà soát, điều chỉnh dự án; đàm phán về chuyển giao công nghệ, đào tạo - hỗ trợ kỹ thuật với đối tác nước ngoài.

Thứ năm, rà soát, xây dựng cơ chế, chính sách theo thẩm quyền và kiến nghị Chính phủ xây dựng cơ chế, chính sách cho điện hạt nhân, trong đó có xem xét việc khuyến khích phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực điện hạt nhân.

Thứ sáu, tăng cường tuyên truyền và nâng cao nhận thức của cộng đồng về lợi ích và an toàn của năng lượng hạt nhân. Việc tổ chức các hội thảo, diễn đàn, và sự kiện truyền thông sẽ giúp người dân hiểu rõ hơn về điện hạt nhân, từ đó thu hút sự quan tâm và khuyến khích thế hệ trẻ theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực điện hạt nhân.

Theo chinhphu.vn