* Theo báo cáo của Chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh Ninh Thuận, trong 6 tháng đầu năm, nguồn vốn huy động trên địa bàn tỉnh đạt 15.600 tỷ đồng, giảm 48 tỷ đồng, giảm 0,31% so với cuối năm 2019, bằng 89% kế hoạch năm 2020. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm từ dân cư đạt 11.155 tỷ đồng, chiếm 71,51% trong tổng nguồn huy động, tăng 474 tỷ đồng, tăng 4,44% so với cuối năm 2019; tiền gửi các tổ chức kinh tế đạt đạt 4.180 tỷ đồng, chiếm 26,79%, giảm 531 tỷ. Tổng dư nợ tín dụng ước thực hiện đạt 25.550 tỷ đồng, tăng 1.002 tỷ đồng, tăng 4,08% so với cuối năm 2019, bằng 88,2% kế hoạch năm; dư nợ xấu trên địa bàn 160 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 0,63% so với tổng dư nợ, giảm 0,03% so với tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2019.
* Theo báo cáo của Liên minh Hợp tác xã tỉnh, tính đến đầu tháng 7-2020, toàn tỉnh có 85 HTX. Trong đó, lĩnh vực nông - ngư - diêm nghiệp có 66 HTX, chiếm tỷ lệ 78%; lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp có 6 HTX, 3 Quỹ TDND; lĩnh vực giao thông vận tải có 5 HTX và lĩnh vực dịch vụ khác 5 HTX. Hầu hết các HTX đã tính toán lại phương án kinh doanh, mở rộng phạm vi, ngành nghề hoạt động, xác định lại vốn góp, huy động nhiều nguồn vốn khác nhau để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, hỗ trợ hiệu quả cho thành viên. Đến nay, toàn tỉnh có 28.916 thành viên trong các HTX; tổng số lao động làm việc thường xuyên trong HTX 799 người; số lao động đồng thời là thành viên HTX có 530 người. Từ đầu năm đến nay có 8 HTX đã tổ chức đại hội thường niên, gồm HTX Tuấn Tú, Phủ Hà, Tấn Tài, Châu Rế, Cà Ná, Gò Đền, Phước Sơn và Nhơn Hải; 2 HTX Đại hội nhiệm kỳ là HTX 1 Tháng 5 và HTX Ô tô Phan Rang..
* Trong 6 tháng đầu năm, cơ quan hành chính các cấp trong tỉnh đã tiếp nhận, xử lý 1.536 đơn khiếu nại, tố cáo, tăng 131 đơn so với cùng kỳ. Qua phân loại có 221 đơn (196 khiếu nại, 25 tố cáo) thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan hành chính các cấp, giảm 198 đơn so với cùng kỳ. Kết quả, đã giải quyết 176 đơn, đạt tỷ lệ 79,63%. Trong đó Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết 25/30 đơn; Giám đốc các sở, ngành giải quyết 17/20 đơn; Chủ tịch UBND huyện, thành phố giải quyết 46/75 đơn; Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn giải quyết 70/96 đơn.
NN