Nhân dịp này, Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) là tổ chức phi lợi nhuận của Việt Nam thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), đã cùng một số liên minh các tổ chức như Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), liên minh Phòng chống Các bệnh Không lây nhiễm (NCDs-VN), Nhóm Hành động vì Công lý – Môi trường – Sức khoẻ (JEH), đã tham gia và góp ý nhằm xây dựng Luật Bảo vệ môi trường đảm bảo tính khả thi, phù hợp với yêu cầu thực tế bảo vệ môi trường và đảm bảo sức khoẻ người dân.
Quang cảnh Quốc hội. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Nguyên tắc tiếp cận xem xét góp ý Dự án Luật
Các nhà khoa học của GreenID cho rằng, việc sửa Luật Bảo vệ Môi trường là cần thiết và cấp bách trong bối cảnh phát triển mới của đất nước, nhất là sau đại dịch Covid-19. Việc sửa đổi toàn diện Luật này vừa nhằm cụ thể hóa các chủ trương và quyết sách mới về phát triển bền vững, không hy sinh, đánh đổi môi trường bằng mọi giá để phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, cũng như đáp ứng mong đợi của người dân về môi trường sống trong lành, vì sức khỏe. Luật Bảo vệ Môi trường (sửa đổi) sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng dẫn đường cho việc ban hành các văn băn dưới Luật và công tác thực thi bảo vệ môi trường, nơi cung cấp nguồn nguyên liệu cho sự sống và nền kinh tế.
Về nguyên tắc mà GreenID đề ra khi tiếp cận xem xét góp ý cho dự Luật, đó là phải nhất quán với Hiến pháp. Vì mục đích cuối cùng của Luật nhằm phục vụ người dân, đảm bảo quyền tiếp cận thông tin, quyền giám sát và quyền được sống trong môi trường trong lành như trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quy định. Các quy định phải phù hợp và dễ dàng áp dụng trong thực tế. Đảm bảo trách nhiệm của doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước trong việc công khai, minh bạch, đầy đủ, kịp thời cung cấp làm rõ các thông tin môi trường cho người dân. Việc xây dựng Luật cần được thực hiện thận trọng với sự tham gia của cộng đồng và các nhóm đối tượng khác nhau.
Dựa trên các nguyên tắc trên, GreenID đã rà soát bản Dự luật này kết hợp với các nghiên cứu trước đó về hiện trạng ô nhiễm không khí, nghiên cứu về tác động của nhiệt điện tới môi trường, kinh nghiệm thực tiễn làm việc với địa phương, các tổ chức cộng đồng; đồng thời tham khảo ý kiến chuyên gia, mạng lưới và kinh nghiệm quốc tế.
Dự Luật mới bao gồm 192 điều, trong đó 7 điều giữ nguyên, 100 điều quy định mới và có 85 điều chỉnh sửa, bổ sung. Trong đó có thể kể tới là trách nhiệm quản lý môi trường của các địa phương được tăng lên, kế hoạch quản lý chất lượng không khí được coi là bắt buộc ở các địa phương, ở cấp bộ, có thêm thanh tra chuyên ngành bảo vệ môi trường để công tác thanh tra hiệu quả hơn. Quy định thêm mới liên quan về giấy phép môi trường trở thành công cụ quản lý mới. Dự án Luật cũng tập trung nhiều về các công cụ kinh tế môi trường, kinh tế tuần hoàn và đưa ra các quy định chi tiết về quản lý rác thải. Song Dự thảo Luật vẫn còn nhiều vấn đề cần được xem xét và phân tích kĩ càng hơn để đảm bảo tinh thần đột phá, tính hiệu quả và khả thi cao trên thực tế.
Phải có những quy định kiểm soát tốt các nguồn phát thải
Ô nhiễm không khí hiện nay đang là vấn đề bức xúc tại nhiều khu đô thị trong khi các quy định hiện tại chưa đủ mạnh để giải quyết các nhu cầu trong quản lý chất lượng không khí. Để công tác quản lý chất lượng không khí có hiệu quả, dự Luật cần phải có những quy định kiểm soát tốt các nguồn phát thải, đặc biệt là các nguồn thải lớn song song với đó cần có những quy định về quản lý ô nhiễm không khí liên vùng.
Về quản lý các nguồn phát thải, dự luật hiện hành chưa đề cập tới lộ trình thắt chặt mức quy chuẩn/tiêu chuẩn của Việt Nam tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế. Nên cần bổ sung trách nhiệm của Bộ Tài nguyên Môi trường trong rà soát và đưa ra lộ trình thắt chặt các quy chuẩn, tiêu chuẩn phát thải đối với các nguồn phát thải khí lớn như nhà máy nhiệt điện than, xi măng, sắt thép, hóa chất… và việc xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn này cũng cần tham khảo công nghệ tốt nhất hiện có (Best Available Technology).
Nhiệt điện than là một trong những ngành đóng góp đáng kể vào ô nhiễm không khí, nhưng những quy chuẩn/tiêu chuẩn phát thải hiện tại của các nhà mày nhiệt điện than ở Việt Nam “nới lỏng” hơn nhiều so với những nước đang đầu tư lớn vào nhiệt điện than ở Việt Nam như Hàn Quốc, Nhật Bản hay nước láng giềng Trung Quốc. Những quy định lỏng lẻo hơn về tiêu chuẩn sẽ dẫn đến những yêu cầu thấp hơn về công nghệ, điều này cho phép chủ đầu tư của những quốc gia có tiêu chuẩn cao hơn này xuất khẩu công nghệ lạc hậu, phát thải ở mức cao, gây ô nhiễm môi trường sang Việt Nam. Việc nâng cao các tiêu chuẩn, quy chuẩn tiệm cận quốc tế là cần thiết để tránh các nguy cơ ô nhiễm xuyên biên giới, ngăn chặn nguy cơ ô nhiễm theo dòng chảy công nghệ lạc hậu, chất thải vào Việt Nam.
Đạt được môi trường sống khỏe mạnh cho mọi người dân là mục đích cuối cùng của việc quản lý chất lượng không khí, bao gồm cả việc đáp ứng các khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Đây là một quá trình lâu dài và cần có những mục tiêu cụ thể, Bộ Tài nguyên và Môi trường cần xem xét và có lộ trình cho việc việc nâng dần các quy chuẩn chất lượng không khí tiệm cận với Hướng dẫn của WHO. Vẫn biết rằng Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế nên chưa áp dụng được những Khuyến nghị của WHO. Nhưng để đảm bảo sức khỏe người dân, vẫn cần có một lộ trình để thắt chặt các tiêu chuẩn trên.
Quản lý chất lượng không khí cần chú ý tới quản lý chất lượng không khí liên vùng, liên tỉnh vì nội dung này vượt khỏi tầm kiểm soát của một địa phương. Cần xây dựng quy định và cơ chế quản lý theo nguyên tắc phòng ngừa hơn là chỉ đưa ra biện pháp khẩn cấp trong trường hợp không khí đã bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Hướng tiếp cận này đã được Bộ Tài nguyên Môi trường tiếp thu và đề cập trong khoản 1 Điều 14 về trách nhiệm thực hiện quản lý chất lượng môi trường không khí “ Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý chất lượng môi trường không khí và chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện; chỉ đạo thực hiện các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng trên phạm vi liên tỉnh, liên vùng.”. Tuy vậy, trên thực tế để đảm bảo chất lượng không khí cần phải tập trung vào việc phòng ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm và phải có giải pháp liên vùng, liên tỉnh ngay từ khi có những biểu hiện ô nhiễm, không thể để khi trường hợp ô nhiễm nghiêm trọng mới đưa ra những biện pháp khắc phục khẩn cấp. Cũng cần quy định rõ ràng trong trường hợp chất lượng không khí có biểu hiện ô nhiễm liên tỉnh, liên vùng trên một khu vực rộng lớn thì đơn vị nào có trách nhiệm chỉ đạo.
Bổ sung thêm các quy định về quản lý chất lượng không khí cần trên hướng tiếp cận theo sức chịu tải của khu vực: Quản lý chất lượng không khí theo tải lượng ô nhiễm đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới, cách tiếp cận này dựa trên việc đánh giá sức chịu tải ô nhiễm của môi trường để từ đó quyết định cho phép đầu tư xây dựng các dự án có phát thải ra môi trường hay không?. Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) đã đề cập đến trong Khoản 2, điều 13 ”Việc xem xét, quyết định đầu tư dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn cứ vào sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con người và môi trường”. Song vẫn chưa thấy có quy định việc đánh giá ”sức chịu tải môi trường” là bắt buộc, chưa đề cập nội dung của Kế hoạch Quản lý Chất lượng Không khí của địa phương. Câu hỏi đặt ra là nếu đã đề cập đến sức chịu tải môi trường thì cần phải có thêm quy định cho nó, trách nhiệm thực hiện đánh giá sức chịu tải môi trường thuộc về đơn vị nào? như vậy mới đưa vào thực thi được. Ngoài ra cũng nên xem xét tiếp cận theo hướng sức chịu tải của toàn vùng vì ô nhiễm là vấn đề không có biên giới như đã đề cập phía trên.
Bổ sung thêm nội dung trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các bên liên quan
Khoản 1 điều 11 quy định : “Tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thải khí thải tác động xấu đến môi trường phải có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý theo quy định của pháp luật.”. Các bên liên quan đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thải khí thải tác động xấu đến môi trường, bên cạnh việc những đối tượng này phải có “trách nhiệm giảm thiểu và xử lý theo quy định của pháp luật” cần phải quy định thêm cả về “trách nhiệm bồi thường thiệt hại”.
Tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế để kiểm soát phát thải: Bài học của các nước cho thấy, ngoài các công cụ cưỡng chế, công cụ kinh tế như phí bảo vệ môi trường đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu phát thải, hạn chế ô nhiễm. Đó cũng thể hiện nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Theo nguyên tắc này, phát thải càng nhiều thì sẽ phải nộp phí càng lớn, sẽ là động lực để các nguồn thải giảm phát thải. Mặt khác, số tiền thu được từ phí cũng được bổ sung cho nguồn kinh phí cho các hoạt đông bảo vệ môi trường không khí.
Mặc dù Dự luật đã có những quy định về phí bảo vệ môi trường, nhưng phí bảo vệ môi trường đối với khí thải chưa được qui định cụ thể ở các văn bản dưới luật, đề xuất phí khí thải cần phải đủ cao để tạo ra thay đổi trong hành vi đối tượng muốn phát thải và cần áp dụng trước hết đối với đối tượng phát thải lớn và dễ kiểm soát như nhiệt điện, xi măng, thép, hoá chất.
Có nội dung riêng quy định về phát triển năng lượng tái tạo
Trong tờ trình trình Quốc hội Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường trong những quan điểm chủ trương, chính sách mới của Nhà nước được tham chiếu làm cơ sở xây dựng, sửa đổi, Luật chưa đề cập đến Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị mới ban hành. Đây là một văn bản quan trọng nêu quan điểm chủ đạo ưu tiên phát triển năng lượng phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch.
Do đó, bổ sung quy định sàng lọc dự án đầu tư theo rủi ro về môi trường; đảm bảo tính đúng tính đủ các chi phí môi trường, xã hội hóa trong đầu tư và giá thành sản phẩm; thông tin tuyên truyền kịp thời và đầy đủ về công tác bảo vệ môi trường trong ngành năng lượng; có cơ chế chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp môi trường gắn với ngành năng lượng; rà soát điều chỉnh, bổ sung vào Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, chiến lược biển Việt Nam các nội dung liên quan tới năng lượng.
Về nội dung liên quan tới năng lượng tái tạo trong dự luật mới bản tham vấn Quốc hội được thể hiện ở các điều gồm: Điều 66 về Quy hoạch khu đô thị; Điều 75 khoản 2 về yêu cầu quản lý chất thải; Điều 153: về Ưu đãi, hỗ trợ về bảo vệ môi trường; Điều 159 về Phát triển thị trường haàng hóa và dịch vụ môi trường; Điều 164 về Trái phiếu Xanh; Điều 186: Trách nhiệm của Bộ Công Thương. Dự Luật sửa đổi đã bỏ đi điều 43 trong Luật Bảo vệ môi trường 2014 về Phát triển Năng lượng tái tạo, trong đó nêu định nghĩa năng lượng tái tạo và chủ trương khuyến khích sử dụng, nhập khẩu, sử dụng máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông sử dụng năng lượng tái tạo. Phát triển năng lượng tái tạo hiện nay đang là xu thế Xanh vì vậy vẫn cần có điều luật quy định riêng để thể hiện rõ tư tưởng đột phá của Đảng và Nhà nước trong phát triển Xanh.
Vì vậy, cần giữ nguyên 1 điều quy định về Phát triển Năng lượng tái tạo như Luật Bảo vệ môi trường 2014 để khẳng định đúng chủ trương của Đảng đưa ra trong Nghị quyết 55 và là bước cụ thể hóa đầu tiên của ngành môi trường trong việc thực hiện Nghị quyết này. Cùng với đó, đề xuất bổ sung vào điều này nội dung khuyến khích nghiên cứu, đầu tư phát triển, sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu và ứng dụng công nghệ, thiết bị sử dụng năng lượng tái tạo rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất và giao thông.
Về sự tham gia của người dân
Thứ nhất, để đảm bảo tính khách quan và toàn diện, cần quy định rõ quyền tham gia trực tiếp của người dân vào các hoạt động bảo vệ môi trường song hành với cơ chế đại diện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cụ thể là người dân có thể trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình từ góp ý xây dựng đến giám sát thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường.
Theo quy định của Hiến pháp 2013, vai trò của người dân được phát huy lớn hơn trong việc tham gia vào quá trình chính sách nói chung và thực hiện quyền môi trường nói riêng. Điều 43, Hiến pháp 2013 đã quy định: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Do vậy, người dân có quyền lên tiếng, tố cáo các hành vi vi phạm môi trường, có quyền tham gia vào quá trình xây dựng, hoạch định chính sách, có quyền được biết các thông tin về quy hoạch đất đai, nguồn nước, quản lý chất lượng không khí,…để kịp thời phát hiện các sai phạm và kiến nghị xử lý.
Thứ hai, cần có những cơ chế khuyến khích người dân đồng hành cùng chính phủ tham gia và giám sát, quản lý và có những biện pháp cải thiện chất lượng môi trường. Cần có một Mục riêng gồm các quy định về cơ chế đảm bảo quyền tham gia, giám sát trực tiếp của người dân đối với việc xây dựng và thực thi pháp luật về môi trường, bao gồm các yếu tố chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức thực hiện và chế tài xử lý đối với các chủ thể vi phạm nghĩa vụ đảm bảo việc thực thi của quyền này. Thêm vào đó, trong thời đại phát triển công nghệ 4.0, cần có cơ chế khuyến khích phát triển các công cụ, ứng dụng nhằm cảnh báo kịp thời và tăng cường sự tham gia của người dân trong giám sát, báo cáo các sai phạm môi trường.
Thứ ba, cần thể hiện rõ hơn vai trò tham gia, giám sát của các nhà khoa học độc lập, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội nghề nghiệp thuộc lĩnh vực phòng chống các bệnh không lây nhiễm, bảo vệ môi trường và sức khỏe sinh thái đối với tiến trình xây dựng và thực thi pháp luật về môi trường; phải có sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội tham gia hỗ trợ người dân, làm cho người dân nắm rõ được các thông tin cần thiết. Bởi người dân là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp của các dự án đầu tư nhưng họ lại bị hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin đặc biệt ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Trong khi đó, các tổ chức phi chính phủ/các nhóm công tác xã hội lại có nhiều thông tin, có phân tích, học tập kinh nghiệm quốc tế nên hoàn toàn chủ động cung cấp thông tin và đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng trong các vấn đề được tham vấn.
Thu Trang