Ngày Dân số thế giới năm nay có chủ đề: “25 năm sau Hội nghị Quốc tế về dân số và phát triển (ICPD): Thúc đẩy tiến độ nhằm đạt được những nội dung đã cam kết”.
Dân số - động lực của phát triển
Theo các chuyên gia, các nhà khoa học thì lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, trong mọi hình thái kinh tế-xã hội, dân số là động lực, là trung tâm của phát triển. Những biến đổi về quy mô, cơ cấu, phân bổ và chất lượng dân số chính là yếu tố quan trọng liên quan đến phát triển. Các nhà lãnh đạo và quản lý của nhiều quốc gia đã ngày càng nhận thức sâu sắc về sự ổn định quy mô dân số với sự gia tăng hợp lý. Điều đó sẽ giúp đất nước giảm bớt những căng thẳng về nguồn tài nguyên cạn kiệt, suy thoái môi trường, quá tải dân cư đô thị..., từ đó tăng các nguồn lực đầu tư phát triển dài hạn, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm, chăm sóc sức khỏe, giáo dục... cho người dân.
Chất lượng dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Ảnh: Văn Nỷ
Dân số gắn với phát triển được đề cập trong mọi chương trình nghị sự của các hội nghị quốc tế về dân số và phát triển. Trong đó, ICPD được tổ chức năm 1994, tại Cairo (Ai Cập) đã đánh dấu một điểm khởi đầu mang tính đột phá. Tại Hội nghị quốc tế này, 179 quốc gia đã thông qua một Chương trình hành động với tầm nhìn sâu rộng trong lĩnh vực dân số và phát triển, trong đó con người được đặt vào vị trí trung tâm, đó là: Gia tăng dân số và phát triển kinh tế; Dân số và an ninh lương thực; Dân số và lao động việc làm; Dân số và đói nghèo; Dân số và giáo dục; Dân số và y tế, sức khỏe sinh sản, quyền sinh sản và kế hoạch hóa gia đình; Công bằng, bình đẳng giới và vị thế của phụ nữ; Dân số và di dân, đô thị hóa; Dân số và bảo vệ môi trường sống. 9 vấn đề này đã cụ thể hóa nội dung quan hệ giữa dân số với kinh tế, xã hội và môi trường.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định dân số là vấn đề gốc của mọi vấn đề, là nền tảng quan trọng trong phát triển bền vững quốc gia và đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh công tác dân số, sức khỏe sinh sản. Nghị quyết số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới của Hội nghị Trung ương 6, khóa XII nhấn mạnh: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.
Việt Nam đạt nhiều thành tựu về công tác dân số
Kể từ ICPD năm 1994 đến nay, công tác dân số của nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tốc độ gia tăng dân số được khống chế thành công. Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm 1,7% giai đoạn 1989-1999 đã giảm xuống dưới 1,2% giai đoạn 1999-2009 và khoảng 1% giai đoạn từ 2010 đến nay. Dân số nước ta khoảng 95 triệu người (năm 2018), ước tính giảm được 20 triệu người nhờ các chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình phù hợp.
Số con trung bình mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã giảm mạnh từ 6,39 con năm 1960 xuống 2,33 con năm 1999, đạt mức sinh thay thế 2,09 con năm 2006, sớm hơn 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) và tiếp tục được duy trì cho đến nay.
Cơ cấu dân số thay đổi tích cực, số lượng và tỷ trọng dân số phụ thuộc giảm, dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Từ năm 1989 đến nay, dân số dưới 15 tuổi giảm mạnh từ 39,2% xuống 24,0%; dân số trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) tăng từ 56,1% lên 68,4%; dân số trên 65 tuổi tăng từ 4,7% lên 7,6%.
Dân số đã có sự phân bố lại hợp lý hơn trên phạm vi cả nước. Phân bố dân số gắn với đô thị hóa, công nghiệp hóa đáp ứng nhu cầu lao động, giải quyết tình trạng mất cân đối lao động-việc làm.
Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tỷ lệ suy dinh dưỡng và tỷ suất tử vong trẻ em đã giảm hai phần ba; tỷ số tử vong mẹ giảm ba phần tư so với năm 1990. Mạng lưới tầm soát, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh đã từng bước được triển khai ở tất cả các tỉnh, thành phố. Đến nay, 25% bà mẹ mang thai và 35% trẻ em sơ sinh ra được tầm soát, chẩn đoán, can thiệp và điều trị sớm một số bệnh, tật.
Tầm vóc thể lực của người Việt Nam có bước cải thiện. Từ năm 1993 đến nay, chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam tăng thêm 3 cm, đạt 164 cm ở nam và 153 cm ở nữ.
Tuổi thọ trung bình tăng từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 73,5 tuổi năm 2018, cao hơn các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Số năm sống trung bình sau khi đạt 60 tuổi của người Việt Nam đã tương đương nhiều nước Châu Âu.
Nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 và dự kiến đạt đỉnh vào năm 2020, với dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 70% dân số. Giai đoạn dân số vàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, dự kiến sẽ kéo dài khoảng 30 năm đến 40 năm, tối đa là 45 năm. Ðây là dư lợi rất lớn, mang lại cơ hội cho phát triển kinh tế và nhiều vận hội khác để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Định hướng công tác dân số trong thời gian tới
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, song hiện nay, nhiều vấn đề dân số đang là thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Quy mô dân số lớn, mật độ dân số cao và tiếp tục tăng. Mức sinh chênh lệch đáng kể giữa các vùng, đối tượng. Tỷ số giới tính khi sinh đang mức nghiêm trọng và ngày càng lan rộng. Di cư diễn ra với cường độ mạnh trên phạm vi cả nước. Thời kỳ dân số vàng đan xen với già hóa dân số với tốc độ rất nhanh. Đặc biệt, chất lượng dân số còn hạn chế.
Do đó trong thời gian tới, công tác dân số cần tiếp tục thực hiện các mục tiêu của Chương trình hành động ICPD và đặc biệt tập trung vào duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hóa dân số một cách chủ động; phân bố dân số hợp lý; từng bước nâng cao chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với phát triển kinh tế-xã hội, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới.
Theo TTXVN