Định hướng phát triển ngành Nông nghiệp Ninh Thuận trong giai đoạn mới

Đồng chí Trịnh Minh Hoàng
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(NTO) Triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) và Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 1-6-2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, đến cuối năm 2016 nông nghiệp tỉnh nhà đã đạt được kết quả khá quan trọng trên các lĩnh vực. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng tích cực, năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng được nâng cao; bước đầu hình thành các vùng sản xuất sản phẩm hàng hóa nông nghiệp tập trung, phát huy lợi thế các sản phẩm đặc thù của tỉnh nhà; kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất từng bước được hoàn thiện, vai trò của doanh nghiệp trong đầu tư và liên kết chuỗi giá trị được hình thành và gắn với sản phẩm đặc thù. Sản xuất nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế-xã hội và ổn định chính trị ở nông thôn.

Bước sang giai đoạn mới, nông nghiệp trong tỉnh đang đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen đó là, nước ta ngày càng hội nhập sâu hơn và nông nghiệp được quan tâm đầu tư; biến đổi khí hậu, nhất là tình hình hạn hán diễn ra trên diện rộng, diện tích đất sản xuất bị thu hẹp; khoa học- công nghệ, nhất công nghệ mới trong nông nghiệp đang phát triển, tạo ra những cơ hội nâng cao năng suất, chất lượng nông sản nhưng yêu cầu về nhân lực, nguồn lực cho ứng dụng phát triển nông nghiệp công nghệ cao đang là một thách thức lớn. Để giải quyết các vấn đề trên, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 11-11-2016; HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết số 73/2016/NQ-HĐND ngày 19-12-2016 đề ra các mục tiêu, định hướng và nhiệm vụ để cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, ứng phó với biến đổi khí hậu đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, đó là:

 
Nông dân xã Phước Nam (Thuận Nam) áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất. Ảnh: Duy Anh

1. Mục tiêu:

Khai thác tốt nhất các lợi thế của vùng tiểu khí hậu khô hạn, để phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững cả về kinh tế, xã hội, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu. Thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để tăng khả năng cạnh tranh thông qua sự khác biệt và đa dạng hóa sản phẩm, ứng dụng công nghệ cao, thu hút đầu tư của doanh nghiệp để tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường. Nâng cao thu nhập và cải thiện điều kiện sống cho cư dân nông thôn, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại.

2. Các chỉ tiêu chủ yếu:

- Đến năm 2020: Tốc độ tăng giá trị gia tăng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản cao hơn giai đoạn trước, đạt bình quân 6-7%/năm, tốc độ tăng giá trị sản xuất đạt 7-8%/năm. Từng bước ứng dụng công nghệ cao để chuyển dịch cơ cấu, phấn đấu nông, lâm nghiệp chiếm 49%, thủy sản 51%; có 2-3 doanh nghiệp quy mô lớn đầu tư ứng dụng công nghệ cao, nâng giá trị sản xuất/ha đất nông nghiệp chủ động nước tăng ít nhất 1,5 lần; có 50% số xã và 1-2 huyện đạt tiêu chí nông thôn mới; thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng 1,8 lần so với năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo nông thôn giảm 2%/năm; trồng rừng mới 3.580 ha và chăm sóc rừng trồng 4.122 ha; dân cư nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 95%.

- Đến năm 2030: Tốc độ tăng giá trị gia tăng ngành nông, lâm, thủy sản cao hơn giai đoạn 2016-2020 trên cơ sở ứng dụng rộng rãi công nghệ cao để phát triển nền nông nghiệp thông minh, thích ứng cao với biến đổi khí hậu. Hình thành các chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực, có tính đặc thù địa phương với vai trò đầu tàu là các doanh nghiệp lớn liên kết với các tổ chức hợp tác của nông dân. Phấn đấu nâng thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng gấp 3 lần năm 2020. Xây dựng nông thôn mới hiện đại theo hướng bền vững.

 
Hồ thuỷ lợi Bà Râu (xã Lợi Hải, Thuận Bắc) được đưa vào sử dụng từ đầu năm 2013,
có dung tích 4,6 triệu m3, cung cấp nước tưới cho khoảng 500 ha đất sản xuất nông nghiệp của địa phương.
Ảnh: Tiến Mạnh

3. Các khâu đột phá:

- Một là, thu hút đầu tư công, đầu tư của các nhà tài trợ, đầu tư của doanh nghiệp tư nhân để phát triển hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, nâng cao năng lực thích ứng để hạn chế tác động của biến đổi khí hậu; trong đó, chú trọng cơ cấu lại ngành thủy lợi theo hướng ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm, liên thông các hồ chứa, liên thông các hệ thống tưới để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước.

- Hai là, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học-công nghệ mới, công nghệ cao gắn với đào tạo nghề cho nông dân trong sản xuất, chế biến, bảo quản; thu hút, khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp vào các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cho các sản phẩm đặc thù của tỉnh gắn với các cụm liên kết ngành hàng theo chuỗi giá trị.

- Ba là, tổ chức lại sản xuất theo hướng thu hút đầu tư của doanh nghiệp tư nhân làm hạt nhân trung tâm, liên kết với các tổ chức hợp tác của nông dân trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ.

- Bốn là, nâng cao nhận thức, tư tưởng, tích cực tham gia có hiệu quả trong việc thực hiện Nghị quyết và các chủ trương, chính sách về cơ cấu lại ngành Nông nghiệp, gắn với ứng phó biến đổi khí hậu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

4. Định hướng và nhiệm vụ cụ thể của các lĩnh vực:

* Trồng trọt:

Chủ trọng các cây đặc thù, lợi thế của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng của cây ăn quả, cây công nghiệp và cây rau đậu; giảm tỷ trọng cây lương thực. Chú trọng phát triển các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh cao và trung bình (nho, táo, tỏi, nha đam, măng tây, mía, sắn; giống lúa, ngô); nâng cao chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng thương hiệu, gắn kết với tiêu thụ và từng bước mở rộng thị trường cho xuất khẩu. Chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang phát triển các cây trồng chịu khô hạn, tiết kiệm nước và có giá trị kinh tế cao. Ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, trước mắt đối với các cây trồng chủ lực (nho, táo, rau, mía) để hạn chế thiệt hại do hạn hán. Phấn đấu chuyển đổi khoảng trên 8 ngàn ha đất trồng lúa kém hiệu quả thuộc khu vực tưới các hồ thủy lợi, trong đó chuyển đổi 2.000 ha trong giai đoạn 2016-2020. Phát triển diện tích nho, táo đạt quy mô 3.200 ha, sản lượng khoảng 50 ngàn tấn nho, 55 ngàn tấn táo. Đầu tư phát triển một số vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, an toàn vệ sinh thực phẩm. Phát triển các cây trồng mới gắn ứng dụng công nghệ cao, có thị trường tiềm năng như cây măng tây đạt 500 ha, cây nha đam đạt 500 ha vào năm 2020.

 
Nông dân thôn Phước An  (xã Phước Vinh, Ninh Phước) đầu tư mở rộng diện tích trồng bắp, mang lại hiệu quả kinh tế cao. 
Ảnh: V.M

* Chăn nuôi:

Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi bò, dê, cừu; ổn định đàn heo và gia cầm, theo hướng nâng cao chất lượng, áp dụng giống mới năng suất cao, tỷ lệ sind hóa đàn bò đạt 50%; đàn dê, cừu lai giống mới đạt 90%; tỷ lệ nạc hóa đàn heo 90%. Từng bước chuyển từ chăn nuôi quảng canh sang chăn nuôi tập trung, gắn với thu hút đầu tư của doanh nghiệp và chuyển đổi diện tích lúa sang cây trồng cạn, cỏ chăn nuôi chất lượng cao, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung, an toàn dịch bệnh, tổ chức chăn nuôi khép kín các khâu trong chuỗi giá trị từ cung ứng đầu vào đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ưu tiên phát triển các con nuôi có lợi thế; đến năm 2020 tổng đàn trâu, bò đạt 144.000 con, dê, cừu đạt 255 ngàn con, phát triển đàn heo theo hướng các trang trại công nghiệp đạt quy mô tổng đàn 110 ngàn con. Ổn định tổng đàn gia cầm theo hướng chăn nuôi công nghiệp đạt quy mô 2 triệu con; thu hút các dự án đầu tư chăn nuôi bò thịt cao sản, dê thịt, dê sữa quy mô lớn từ 20-30 ngàn con/trang trại tại các vùng tưới các hồ thủy lợi nội tỉnh gắn với việc chuyển đổi đất lúa sang trồng cỏ chất lượng cao, các hộ nông dân là vệ tinh hoặc cho doanh nghiệp thuê đất lâu dài.

* Thủy sản:

Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng của sản xuất giống, khai thác đánh bắt hải sản xa bờ.

- Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng đầu tư thâm canh, tăng năng suất, tăng hiệu quả, đảm bảo vệ sinh an toàn và cân bằng sinh thái môi trường; mở rộng nuôi trồng trên biển. Từng bước tổ chức lại sản xuất theo hướng nâng cao trình độ công nghệ nuôi, cấu trúc lại hệ thống ao đìa thành các khu vực chuyên ứng dụng công nghệ cao và các khu vực nuôi sinh thái bền vững. Diện tích nuôi đạt 2.350 ha, sản lượng nuôi 18-20 ngàn tấn vào 2020; trong đó tôm trên 1.000 ha, sản lượng tôm nuôi là 12 ngàn tấn. Quy hoạch lại và đầu tư cơ sở hạ tầng vùng sản xuất giống; khuyến khích các cơ sở sản xuất nhỏ liên kết hình thành các tập đoàn đầu tư công nghệ hiện đại, giữ vững vị thế là trung tâm giống chất lượng cao của cả nước, sản lượng đạt 36 tỷ con vào 2020. Tiếp tục quy hoạch lại và đầu tư hoàn thiện hạ tầng các vùng sản xuất giống tập trung và vùng nuôi thủy sản thương phẩm An Hải, Sơn Hải; đầu tư giai đoạn II dự án đầu tư CSHT và cấp thoát nước Đầm Nại; đầu tư mới hạ tầng vùng sản xuất giống Nhơn Hải để tạo điều kiện cho các các doanh nghiệp đầu tư mở rộng quy mô, hoàn thiện cơ sở vật chất- kỹ thuật để ứng dụng công nghệ cao.

- Đẩy mạnh khai thác xa bờ, chuyển đổi cơ cấu sang các nghề lưới vây, nghề câu, nghề chụp, lưới rê… để khai thác các sản phẩm vùng khơi có giá trị kinh tế cao, gắn với bảo vệ quốc phòng-an ninh. Tiếp tục thực hiện Đề án tổ chức lại nghề khai thác hải sản gắn với thực hiện các chính sách phát triển thủy sản; khuyến khích đầu tư tàu thuyền công suất lớn, khai thác xa bờ. Đến 2020 tổng số tàu thuyền khoảng 2.900 chiếc, có tổng công suất 380 ngàn CV, khai thác đạt 75-80 ngàn tấn hải sản/năm. Đầu tư các cảng cá, bến cá, khu neo đậu tránh, trú bão theo quy hoạch được Chính phủ phê duyệt: Đông Hải, Ninh Chử, Cà Ná, các bến cá Mỹ Tân, Sơn Hải để phát triển khai thác đánh bắt xa bờ theo hướng đầu tư đồng bộ hạ tầng, dịch vụ đóng sửa chữa tàu thuyền, phát triển dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm.

* Lâm nghiệp:

Thiết lập, quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững 202.484 ha rừng và đất rừng vào năm 2020; trong đó rừng đặc dụng 41.811 ha, rừng phòng hộ 116.462 ha và rừng sản xuất 39.611 ha và rừng ngoài quy hoạch 3 loại rừng 4.600 ha gắn với việc tổ chức lại các đơn vị lâm nghiệp do Nhà nước thành lập; chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng trồng và chăm sóc rừng, dịch vụ lâm nghiệp; phấn đấu nâng độ che phủ rừng bằng nhiều giải pháp như khoanh nuôi tái sinh, bảo vệ và trồng rừng phòng hộ, rừng sản xuất. Bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng tại hai Vườn quốc gia gắn với phát triển du lịch sinh thái, bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa, lịch sử. Trồng rừng phòng hộ, đặc dụng tại các khu vực xung yếu ven biển, các khu rừng đầu nguồn các hồ, đập thủy lợi với các loại cây trồng bản địa và cây đã thích nghi như cây neem, cây trôm. Phát triển rừng sản xuất theo hình thức Nhà nước hỗ trợ một phần với các đối tượng cây trồng mới ứng dụng công nghệ mô, hom cho năng suất cao gắn với phát triển chăn nuôi dưới tán rừng, phát triển theo mô hình nông-lâm kết hợp để hạn chế tác động tiêu cực của hạn hán; từng bước phát triển công nghiệp chế biến gỗ rừng trồng. Đối với lâm sản ngoài gỗ, trước mắt hướng tới phát triển các loại sản phẩm lâm sản ngoài gỗ như mủ trôm, lá và quả neem, các cây dược liệu khác.

* Diêm nghiệp:

Sản xuất muối công nghiệp đến 2020 ổn định diện tích 3.460 ha, sản lượng khoảng 450 ngàn tấn; đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến muối và các sản phẩm sau muối với trang thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại trở thành trung tâm sản xuất, chế biến muối và hóa chất từ muối hiện đại gắn với bảo vệ môi trường, giải quyết, xử lý có hiệu quả diện tích bị nhiễm mặn, không cho lan ra diện rộng. Phát triển các cơ sở chế biến muối hiện có trên cơ sở đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Ổn định vùng sản xuất muối diêm dân, muối thực phẩm sạch phát triển tập trung tại huyện Ninh Hải 480 ha; xây dựng chuỗi ngành hàng theo hướng tăng cường liên kết giữa hộ sản xuất với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến muối và thị trường thông qua tổ hợp tác/hợp tác xã. Tăng cường áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất muối với các công nghệ phủ bạt ô kết tinh, phương pháp trải bạt trên nền ô kết tinh, công nghệ tuyển rửa muối ngay sau thu hoạch. Từng bước đầu tư cơ giới hóa ở các đồng muối tập trung có đủ điều kiện thực hiện cơ giới hóa.

* Cơ cấu ngành thủy lợi theo hướng ứng dụng công nghệ mới, sử dụng tiết kiệm nước, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu:

- Rà soát, điều chỉnh Quy hoạch thủy lợi đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 theo hướng tính toán cân bằng lại nguồn nước thích ứng với biến đổi khí hậu để đảm bảo nhu cầu dùng nước trong giai đoạn tới của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, du lịch và các ngành kinh tế khác.

- Điều chỉnh nhu cầu dùng nước của ngành Nông nghiệp bằng các giải pháp:

+ Xây dựng đề án và tập trung nguồn lực để chuyển đổi trên 8 ngàn ha đất lúa kém hiệu quả sang cây trồng sử dụng ít nước, cây trồng cạn như rau màu, cây công nghiệp, cây ăn quả sang trồng cây có hiệu quả hơn, gắn với việc áp dụng công nghệ mới (nhất là công nghệ tưới tiết kiệm), đổi mới kỹ thuật canh tác, tổ chức lại sản xuất theo cánh đồng lớn, liên kết giữa doanh nghiệp với các tổ chức của nông dân trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

+ Ứng dụng và ban hành chính sách khuyến khích, hỗ trợ nhân rộng công nghệ tưới tiết kiệm nước. Phấn đấu đến năm 2020 có 50% diện tích nho, táo và sản xuất rau, củ, cỏ chăn nuôi, được áp dụng tưới nhỏ giọt hoặc phun mưa; trên 50% diện tích sản xuất lúa được áp dụng công nghệ “1 phải, 5 giảm”. Ứng dụng và nhân rộng các giải pháp chống bốc hơi nước để giảm tưới nước, giảm làm cỏ cho cây trồng.

+ Nghiên cứu quy hoạch, xây dựng các công trình liên thông các hồ chứa, liên thông các hệ thống tưới để tăng hiệu quả sử dụng nguồn nước: Trong giai đoạn đến 2020 tập trung hoàn thành hồ sông Than, hồ sông Cái và đập Tân Mỹ, đập hạ lưu sông Dinh; đầu tư các hệ thống kênh mương cấp 2, cấp 3 tại các khu vực tưới hồ chứa đang và sẽ xây dựng đưa năng lực tưới đạt 60% diện tích đất nông nghiệp. Liên thông các hồ chứa bằng đường ống để đưa vào quy hoạch xây dựng trong giai đoạn đến năm 2020 và đến năm 2030, đó là: Kết nối liên thông đưa nước từ hồ Sông cái-Đập Tân Mỹ về các khu vực phía Bắc của tỉnh như hồ Thành Sơn, Bà Râu, Sông Trâu, Ông Kinh; kết nối liên thông hồ Tân Giang về hồ Sông Biêu và hồ Suối Lớn; kết nối liên thông hồ Sông Than về hồ Lanh Ra, Tà Ranh, Bầu Zôn, Suối Lớn, CK7.

Bước sang giai đoạn mới, bên cạnh những khó khăn, thách thức, nhưng với sự chỉ đạo của quyết liệt của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các giải pháp có tính đồng bộ, căn cơ đã được xác định, nông nghiệp trong tỉnh sẽ tiếp tục phát triển, với một tầm nhìn mới, nhận thức mới, góp phần nâng cao thu nhập cho hộ nông dân, hoàn thành các mục tiêu xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại, bền vững.