Tăng cường tiếng việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số

(NTO) Vừa qua, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch về tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non (MN), học sinh (HS) tiểu học vùng dân tộc thiểu số (DTTS) giai đoạn 2016-2020 định hướng đến 2025 trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Đồng chí Nguyễn Anh Linh
Phó Giám đốc sở GD&ĐT

Với mục tiêu giúp trẻ em MN, HS tiểu học là DTTS có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục MN và chương trình giáo dục TH. PV Báo Ninh Thuận đã có cuộc trao đổi với đồng chí Nguyễn Anh Linh, Phó Giám đốc sở GD&ĐT xung quanh nội dung trên.

Phóng viên: Đồng chí đánh giá về tình hình triển khai thực hiện dạy tiếng Việt của trẻ MN, HS tiểu học người DTTS trên địa bàn tỉnh thời gian qua?

Đồng chí Nguyễn Anh Linh: Thời gian qua, việc thực hiện dạy tiếng Việt cho trẻ MN, HS tiểu học là DTTS trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm thực hiện. Đối với cấp học MN: Hiện nay, toàn tỉnh có 89 trường MN (72 công lập, 17 tư thục) trong đó có 50 trường có trẻ DTTS, với 271 nhóm, lớp. Trong những năm qua, cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, đồ chơi trong cấp học MN, nhất là vùng DTTS đã được quan tâm đầu tư. Tổng số trẻ DTTS ra lớp: 4.828 trẻ, đạt tỷ lệ 28,5%. Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên là người DTTS trong cấp học MN có 217 người; giáo viên dạy trẻ vùng DTTS có 349 người. Đối với vùng đồng bào Chăm, hầu hết giáo viên là người Chăm dạy trẻ, nên thuận lợi trong giao tiếp, dạy học. Tại vùng đồng bào dân tộc Raglai có trên 200 giáo viên giảng dạy, trong đó có 50 giáo viên dân tộc Raglai và 20 giáo viên dân tộc Chăm; các nhóm, lớp khác trẻ gặp khó khăn trong giao tiếp với giáo viên. Số đông trẻ DTTS bắt đầu đến trường từ 5 tuổi do đó thời gian trẻ giao tiếp và học nói tiếng Việt tại trường không nhiều. Môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt rất hạn chế, nhất là tại các điểm trường, lớp lẻ. Đối với cấp TH: Toàn tỉnh có 153 trường, với 206 điểm trường, trong đó có 93 trường có học sinh là DTTS, với 16.097 HS DTTS; có 3 trường phổ thông dân tộc bán trú; một số trường đã tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày. Hiện có 1.366 giáo viên đang trực tiếp dạy HS DTTS, trong đó có 793 giáo viên người Kinh (chiếm 58,8%); 480 giáo viên là DTTS (chiếm 35,1%). Số giáo viên không biết tiếng mẹ đẻ của HS là 886 người (chiếm tỉ lệ 64,9%); nhiều giáo viên đã được tập huấn về phương pháp dạy tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai. Tuy nhiên, số HS DTTS được học 2 buổi/ngày còn ít. Đồ dùng, trang thiết bị dạy học tối thiểu còn thiếu thốn, xuống cấp. Nhiều trường và điểm trường thiếu sách, truyện, tài liệu để tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS. Những năm qua, kinh phí và nguồn lực hỗ trợ cho các hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ DTTS còn eo hẹp; chưa có chế độ, chính sách cho giáo viên dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ DTTS trước khi vào lớp 1 trong hè. HS tiểu học, nhất là các lớp đầu cấp do không biết hoặc biết rất ít tiếng Việt nên gặp rất nhiều khó khăn trong học tập, đặc biệt là những trẻ không qua lớp mẫu giáo 5 tuổi. Do không biết tiếng Việt nên những HS này khó khăn trong giao tiếp với giáo viên, rụt rè, thiếu mạnh dạn trong các hoạt động, hạn chế trong tiếp thu kiến thức. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nhiều HS DTTS lưu ban, bỏ học ở cấp TH.

Phóng viên: Vậy để thực hiện hiệu quả việc dạy tiếng Việt của trẻ MN, HS tiểu học người DTTS trên địa bàn tỉnh, trong thời gian tới ngành có những giải pháp gì?

Đồng chí Nguyễn Anh Linh: Mục tiêu của tỉnh đến năm 2020, có ít nhất 35% trẻ em người DTTS trong độ tuổi nhà trẻ và 90% trẻ em DTTS trong độ tuổi mẫu giáo, trong đó, 100% trẻ em trong các cơ sở giáo dục MN được tập trung tăng cường tiếng Việt phù hợp theo độ tuổi. Đến năm 2025, có ít nhất 50% trẻ em DTTS trong độ tuổi nhà trẻ và 95% trẻ em DTTS trong độ tuổi mẫu giáo, trong đó, 100% trẻ em trong các cơ sở giáo dục MN được tập trung tăng cường tiếng Việt phù hợp theo độ tuổi. Hằng năm, 100% HS TH là DTTS được tập trung tăng cường tiếng Việt. Để thực hiện mục tiêu trên, ngành đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp như: Đẩy mạnh công tác truyền thông; tăng cường học liệu, trang thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi; xây dựng môi trường tiếng Việt; nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục của các cơ sở giáo dục MN và TH có trẻ em người DTTS, bồi dưỡng đội ngũ cộng tác viên hỗ trợ ngôn ngữ của trẻ em DTTS; đẩy mạnh các hoạt động tăng cường tiếng Việt trong các cơ sở giáo dục MN, TH; xây dựng và thực hiện một số chính sách phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương; đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động sự tham gia đóng góp nguồn lực của các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể, các đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, các nguồn vốn hợp tác khác để hỗ trợ tăng cường tiếng Việt cho trẻ em DTTS. Bên cạnh đó ngành sẽ phối hợp với các sở, ngành và địa phương liên quan tổng hợp báo cáo định kỳ hằng năm cho UBND tỉnh và Bộ Giáo dục và Đào tạo theo quy định; tham mưu, đề xuất UBND tỉnh thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến việc tổ chức dạy học tăng cường tiếng Việt cho trẻ MN và HS tiểu học là DTTS.

Phóng viên: Xin cảm ơn đồng chí.