Nhớ một thời giải phóng Ninh Thuận

Tròn 50 năm sau ngày giải phóng, quê hương Ninh Thuận đã “thay da đổi thịt” từng ngày. Nhớ lại những ngày tháng chiến đấu gian khổ, nhiều cựu chiến binh (CCB) từng tham gia chiến đấu giải phóng Ninh Thuận năm xưa vẫn rưng rưng niềm xúc động...

Tiếp chúng tôi trong căn nhà ở khu phố 4, phường Đô Vinh (Tp. Phan Rang - Tháp Chàm), CCB Nguyễn Trọng Nghĩa, nguyên Đại đội trưởng Đại đội Đặc công 311 (Tỉnh đội Ninh Thuận) bồi hồi nhớ về những ngày tham gia kháng chiến. Ông Nghĩa chia sẻ: Tôi sinh ra tại tỉnh Bến Tre. Năm 1962, khí thế hào hùng của phong trào Đồng Khởi thôi thúc tôi lên đường nhập ngũ, tham gia chiến đấu tại căn cứ R (Trung ương Cục miền Nam). Đầu năm 1965, tôi nhận lệnh hành quân ra chiến trường Ninh Thuận, nơi từ đó không chỉ là mặt trận gian khổ mà còn trở thành quê hương thứ hai của tôi. Trong những trận đánh ác liệt với quân thù, ông Nghĩa nhớ như in trận đánh vào tháng 4/1975 góp phần đập tan “Lá chắn thép Phan Rang” do chế độ Việt Nam Cộng hòa dựng nên.

Cựu chiến binh Nguyễn Trọng Nghĩa, nguyên Đại đội trưởng Đại đội đặc công 311 (Tỉnh đội Ninh Thuận).

Ninh Thuận khi ấy được coi là chiến trường vô cùng gian khổ, xa sự chỉ đạo của trung ương, thiếu thốn mọi bề và lực lượng của địch hơn ta gấp nhiều lần. Đến Ninh Thuận, tôi tham gia nhiều trận đánh, đến thời điểm trước tháng 4/1975, tôi là Trung úy Đại đội trưởng Đại đội Đặc công 311 của Tỉnh đội. Đã 50 năm trôi qua kể từ ngày giải phóng nhưng trong ký ức, tôi không bao giờ quên được những gì xảy ra vào ngày 16/4/1975. Trước đó, từ ngày 7/4, đơn vị tôi bắt đầu mở màn bằng những trận đánh vào đồn lính tại Bảo An, Xóm Dừa (phường Đô Vinh), Mỹ Đức (phường Phước Mỹ) thuộc thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. Sau khi bắt được một đại úy cảnh sát, trước sự phản công mạnh của địch, đêm 8/4, đơn vị tôi rút ra phòng thủ ở núi Cà Đú. Nhớ nhất là vào sáng ngày 16/4, Đại đội Đặc công 311 chúng tôi nhận lệnh của cấp trên phối hợp với Sư đoàn 3 đánh chiếm Tiểu khu Ninh Thuận. Quân ta chia làm 3 mũi chính: Mũi đầu tiên có xe tăng dẫn đầu tiến theo đường 1, sau khi đánh chiếm Phan Rang thì tiến lên sân bay Thành Sơn. Mũi thứ hai từ hướng Tây Bắc đánh thẳng vào sân bay Thành Sơn. Mũi thứ ba đánh chiếm cảng Ninh Chữ, không cho địch tháo chạy ra biển. Bị quân đội ta tấn công 3 mặt, phòng tuyến Phan Rang trước nguy cơ bị đập tan, ngụy quân hoang mang tìm mọi cách thoát thân. Quá trình mật vụ, Thượng sĩ Trần Ngọc Điền thuộc Đại đội Đặc công 311 phát hiện Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang và một số sĩ quan ngụy trà trộn thành dân thường nhằm bỏ trốn ra Cà Đú, tìm cách thoát thân theo đường biển. Nhận được tin mật báo và dò tìm ra nơi ẩn náu của tướng ngụy, đại đội được lệnh mai phục ở khu vực Cà Đú, đến tối thì bắt gọn 2 tướng ngụy cùng nhiều sĩ quan cao cấp, bàn giao cho Sư đoàn 3 xử lý. Lúc bấy giờ binh lính ngụy rệu rã, chống trả yếu ớt; quân ta đã làm chủ nhiều cơ quan trọng yếu của thị xã. Thừa thắng xông lên, bộ đội chủ lực và các cánh quân phối hợp đánh chiếm sân bay Thành Sơn, giải phóng thị xã Phan Rang, mở đường cho đại quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn.

CCB Nguyễn Trọng Nghĩa chia sẻ: Nhìn lại chặng đường 50 năm qua, nhờ sự hỗ trợ của trung ương, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của cấp ủy, điều hành, quản lý linh hoạt của chính quyền các cấp đã từng bước đưa tỉnh nhà phát triển tương đối cao, bền vững. Các công trình thủy lợi, giao thông, y tế, giáo dục phát huy tốt hiệu quả sử dụng tạo động lực nâng cao năng lực sản xuất, bảo đảm ổn định đời sống nhân dân. Diện mạo Tp. Phan Rang- Tháp Chàm và các vùng nông thôn trong tỉnh ngày càng khởi sắc, đánh dấu bước phát triển mới rất đáng tự hào. Bản thân tôi vui mừng, tự hào vì đã góp phần nhỏ bé vào ngày quê hương được giải phóng, đất nước thống nhất, nhưng cũng chạnh lòng khi nghĩ đến những đồng đội đã mãi mãi nằm xuống, không kịp thấy quê hương hôm nay đổi thay từng ngày.

Những ngày tháng Tư lịch sử cũng là dịp CCB Katơr Dú, Thôn Ú, xã Ma Nới (Ninh Sơn) nhớ lại những ngày nhiệt huyết cống hiến của tuổi trẻ. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Ma Nới giàu truyền thống cách mạng. Vì vậy vào năm 1969, dù chỉ là một thiếu niên 13 tuổi, ông Katơr Dú sớm giác ngộ cách mạng và tham gia bộ đội, chiến đấu ở đơn vị C80 thuộc Huyện đội Anh Dũng. Những tháng ngày gian khổ ấy vẫn in sâu trong ký ức ông, nhất là giai đoạn nước rút khi toàn quân, toàn dân đồng lòng tiến công giải phóng Ninh Thuận (16/4/1975), tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975). Khi ấy, trên cương vị Tiểu đội trưởng Tiểu đội Bộ binh, ông chỉ huy đồng đội bám chắc địa bàn, phục kích, đánh du kích suốt dọc tuyến đường từ xã Hòa Sơn về tận Căn cứ CK7, kiên cường chiến đấu trong nhiều tháng liền để tiêu diệt địch, bảo vệ từng tấc đất quê hương. Và rồi, giây phút thiêng liêng nhất cũng đến - Ninh Thuận giải phóng.

Cựu chiến binh Katơr Dú, thôn Ú, xã Ma Nới (Ninh Sơn).

Đến tận bây giờ, ông Dú vẫn nhớ nguyên vẹn cái cảm giác rạo rực khó tả khi chứng kiến biển người đổ ra đường, hò reo trong niềm vui chiến thắng. Không còn tiếng bom rơi, không còn cảnh tan hoang đổ nát, chỉ có những nụ cười rạng rỡ, những giọt nước mắt hạnh phúc. Sau chiến tranh, ông Dú phục viên, trở về quê hương, tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của Ma Nới. Không chỉ tập trung phát triển kinh tế gia đình, ông còn tích cực tham gia công tác địa phương, hết lòng vận động bà con Raglai thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ông mong muốn đồng bào dân tộc Raglai cùng chung tay xây dựng cuộc sống mới, vươn lên thoát nghèo, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng miền núi ngày càng phát triển. Ông Katơr Dú chia sẻ: Sau 50 năm hòa bình, nhìn quê hương đổi thay từng ngày, chứng kiến tỉnh nhà vươn mình trên mọi lĩnh vực, đời sống người dân ngày càng được nâng cao, lòng tôi không khỏi tự hào, xúc động. Tôi mong thế hệ trẻ hôm nay tiếp tục phát huy truyền thống của cha ông, không ngừng học tập, lao động, sản xuất, cùng chung tay xây dựng Ninh Thuận ngày càng giàu đẹp, văn minh, xứng đáng với sự hy sinh của bao thế hệ đi trước.

Chiến tranh đã qua đi, nhưng những câu chuyện của các CCB tham gia giải phóng Ninh Thuận vẫn vang mãi bản hùng ca trong lòng dân tộc. Những câu chuyện đó sẽ là hành trang, là động lực để thế hệ trẻ hôm nay và mai sau biết trân quý, gìn giữ và phát huy những thành quả mà cha ông ta đã viết nên bằng máu, bằng mồ hôi và nước mắt, từ đó tiếp tục viết tiếp những trang sử vẻ vang, đưa Ninh Thuận ngày càng phát triển, giàu đẹp hơn.