Mô tả cây
Cây nhỏ hay nhỡ, cành lúc non có lông mịn, sau nhẵn. Lá màu lục vàng nhạt, mọc so le, 7-9 lá chét, lệch ở phía cuống, phiến lá nhẵn trừ mặt trên gân chính và gân lớn ở mặt dưới. Hoa trắng hay vàng nhạt, mọc thành cụm ngắn hơn lá. Cánh hoa chỉ hơi có lông hay không có lông. Quả hình trứng, khi chín có màu vàng hay vàng cam, nhẵn, trong có 2-3 ngăn. Mỗi ngăn chứa một hạt. Mùa hoa tháng 12-1.
Mọc hoang rất phổ biến ở khắp miền rừng núi nước ta Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Tây, Hòa Bình, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hóa…
Thường người ta chỉ hay dùng lá tươi hái vê sao vàng sắc uống hoặc vò lá tươi vắt lấy nước. Có khi giã nát đắp lên nơi lở loét, vết thương.
Rễ hái về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô, không phải chế biến gì khác.
Công dụng và liều dùng
Lá dùng ngoài giã nát đắp lên vết thương, vết loét, sao vàng ngâm rượu xoa bóp chữa tê thấp, teo cơ. Rễ cũng dùng ngâm rượu xoa bóp.
Một số nơi dùng lá hay rễ sắc uống chữa kinh nguyệt không đều, sốt, đau nhức, tê thấp. Mỗi ngày uống 6 đến 12g dưới dạng thuốc sắc.
Đơn thuốc có kim sương
Thuốc chữa đau nhức, teo cơ: Rễ kim sương sao vàng 50g, cồn 400 500ml, ngâm trong vòng 7 đến 10 ngày, lấy rượu xoa bóp nơi đau nhức, teo cơ.
Đức Doãn (Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam).